Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên
Chân dung Trương Vĩnh Ký
"Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng..." (Lời nói đầu của TRƯƠNG VĨNH KÝ trong cuốn Vần quốc ngữ)
TTO - Dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về ông Trương Vĩnh Ký, song có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng ông là người Việt đầu tiên "làm thầy giáo" chữ quốc ngữ. Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền" trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.
Pháp mở trường thông ngôn
Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.
Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường Lê Quý Đôn.
Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ quốc ngữ ở Nam kỳ?
Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc. Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.
Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn trầu.
Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn "tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu khó chấp nhận đối với giới quân đội.
Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.
Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc" và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.
Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy Trường Thông ngôn ra đời.
Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp in năm 1877 của Trương Vĩnh Ký
Vai trò của Trương Vĩnh Ký
Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt, một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về, ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng Annam (Abrégé de grammaire Annamite) in năm 1867.
Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...
Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ, các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc" là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của cây đờn...
Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một người quả là rất đáng nể!
Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách để đọc tham khảo.
Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết: "Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".
Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.
Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ 1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần 200 tác phẩm của ông.
Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.
Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.
Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.
Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học, nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con, rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.
Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước nhà.
Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...
Một trang sách giáo khoa của Trương Vĩnh Ký
Trường quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn
Trước đó, trường dạy tiếng Annam viết bằng mẫu tự Latin đã được giáo sĩ Puginier Phước thành lập đầu năm 1860 mang tên d’Adran (nay là khuôn viên Trường Võ Trường Toản và Trưng Vương) khi giáo sĩ này phụ trách Tiểu Chủng viện Sài Gòn.
Và giáo sĩ Puginier Phước cũng là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây và dạy chữ quốc ngữ cho các giáo dân ở đây, trong số đó có Trần Tử Ca và Trương Minh Ký.
bài liên quan mới nhất
- Sứ vụ và hoạt động của Hội đồng Toà Thánh về Văn hóa
-
Định hướng văn học trong mục vụ truyền giáo thời đầu tại Việt Nam -
Tủ Sách Nước Mặn: Những tác giả văn thơ cần in sách -
Léopold Michel Cadière 1869-1955 -
Ban Mục vụ Văn hóa TGP Sài Gòn: thông báo hai cuộc trưng bày các hiện vật cổ -
Những đóng góp của Kitô giáo Việt Nam cho nền văn hóa và văn học dân tộc -
Giáo hội Công Giáo dấn thân trong sứ mạng Giáo dục -
Ban Văn hoá TGP: Cuộc trưng bày Ấn phẩm Văn hóa Kitô giáo -
Lễ Giỗ đầu của Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống -
Hội thảo “Kinh Nghiệm Về Hoạt Động Thư Viện & Góp Ý Xây Dựng Thư Viện Văn Hóa Công Giáo Việt Nam”
bài liên quan đọc nhiều
- Ban Mục vụ Văn hóa TGP Sài Gòn: thông báo hai cuộc trưng bày các hiện vật cổ
-
Những đóng góp của Kitô giáo Việt Nam cho nền văn hóa và văn học dân tộc -
Toàn cầu hóa: cơ hội và thách đố của giới trẻ ngày nay -
Ban Văn hoá TGP: Cuộc trưng bày Ấn phẩm Văn hóa Kitô giáo -
Giáo hội Công Giáo dấn thân trong sứ mạng Giáo dục -
Léopold Michel Cadière 1869-1955 -
Tưởng nhớ một người anh em: Đức cha Giuse Vũ Duy Thống -
Hội nhập văn hóa và tính cách đa văn hóa -
Văn hóa, văn minh -
Tủ Sách Nước Mặn: Những tác giả văn thơ cần in sách