Chúa nhật 4 Phục sinh năm B (Ga 10,11-18) - Mục tử nhân lành

Chúa nhật 4 Phục sinh năm B (Ga 10,11-18) - Mục tử nhân lành

Chúa nhật 4 Phục sinh năm B (Ga 10,11-18) - Mục tử nhân lành

“Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha,
và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. (Ga 10,15)

BÀI ĐỌC I: Cv 4, 8-12

“Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phêrô được đầy Thánh Thần, đã nói: “Thưa chư vị Thủ lãnh toàn dân và Kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Đá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng, không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để phải nhờ Danh đó mà chúng ta được cứu độ”.

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 117, 1 và 8-9. 21-23. 26 và 28cd và 29

Đáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).

Hoặc đọc: Alleluia.

 

Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa ở loài người. Tìm đến nương tựa Chúa, thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. - Đáp.

2) Con cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe con, và đã trở nên Đấng cứu độ con. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. - Đáp.

3) Phúc đức cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa của con và con cảm tạ Chúa, lạy Chúa con, con hoan hô chúc tụng Ngài. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở. - Đáp.

 

BÀI ĐỌC II: 1 Ga 3, 1-2

“Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và sự thật là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con cái Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.    

Đó là lời Chúa.

 

Tin mừng: Ga 10, 11-18

11 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy.

Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, 13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. 14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành.

Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.

17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.

Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Suy niệm: Người chăn chiên tốt lành chính là Ðức Giêsu. Chỉ có Ðức Giêsu là Mục Tử đích thực vì Ngài đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên được an toàn, được tự do, và được sống. Ngài đã chịu đóng đinh và chịu chết cách ô nhục để cứu vớt toàn thể nhân loại. Nhờ tình yêu và yêu tới cùng của vị Mục Tử, đoàn chiên đã được sống và sống dồi dào.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiến thân cứu chuộc chúng con, cho chúng con được sống. Chúa yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho chúng con, dù chúng con bất xứng với ân huệ cao quý ấy. Chúng con đã từ bỏ Chúa, nghe theo tiếng gọi của danh vọng, tiền của, giàu sang. Xin cho chúng con luôn ý thức: chúng con là môn đệ, là chiên thuộc về Chúa. Chúng con mau mắn nghe theo tiếng Chúa đang hướng dẫn từng người chúng con trong cuộc sống. Amen.

Ghi nhớ: “Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Đoạn kinh Thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và người chăn xấu, người chăn trung tín và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Pa-lét-tin phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có chuyện gì xảy ra cho chiên người ấy phải trưng bày bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi.

Tiên tri A-mos có nói đến việc người chăn chiên gỡ được hai giò hay một tai của con chiên khỏi hàm sư tử (3.12). Luật pháp quy định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng” (XH 22,). Ở đây muốn nói là kẻ chăn phải đem về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy. Đaminh-vít kể cho Sa-un nghe về cách thế chàng chăn chiên cho cha mình, đã đánh đuổi được sư tử và gấu (x. ISm 17,34-36). Người-sai-a đề cập đến việc kẻ chăn chiên được gọi ra để đối phó với sư tử (31,4). Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên.

Lắm khi họ còn phải làm nhiều hơn thế nữa để cứu chiên, ấy là phải liều bỏ mạng mình vì chiên. Việc này đặc biệt xảy ra khi có bọn trộm cướp đến phá bầy chiên, Trong quyển xứ Thánh và Kinh Thánh, Thompson viết: “Tôi rất thích thú lắng nghe họ thuật lại một cách sinh động về những trận đánh quyết liệt và tuyệt vọng với đám thú dữ đó. Rồi khi bọn trộm cướp đến, người chăn trung tín thường phải liều mạng để bảo vệ bầy chiên. Tôi được biết có nhiều trường hợp người chăn thật sự hy sinh mạng sống mình trong cuộc hciến đấu. Mùa xuân vừa rồi ở khoảng giữa Ti-bê-ri-a và Ta-bo tội nghiệp một người chăn trung tín, thay vì bỏ chạy, đã ở lại chiến đấu với ba tên cướp du mục, cho đến khi anh bị băm vành ra từng mảnh, nằm chết giữa bầy chiên mà anh bảo vệ”. Người chăn thật chẳng bao giờ ngần ngại liều mạng ngay cả hy sinh mạnh sống mình vì bầy chiên.

Nhưng mặt khác, cũng có kẻ chăn giả, bất trung. Chỗ khác nhau là: người chăn chiên vốn là kẻ được sinh ra để làm công việc này. Anh được sai đến với bầy chiên lúc vừa đủ tuổi có thể chăn chiên được, anh lớn lên trong tiếng gọi trở thành người chăn chiên, và chiên trở thành bạn chung sống với anh, anh lo nghĩ cho chiên trước khi lo nghĩ cho mình. Những kẻ chăn giả nhận việc không do tiếng gọi, mà vì muốn kiếm tiền. Anh hành nghề chỉ bởi đồng tiền lương. Cũng có thể anh phải ra đồng núichăn chiên vì thành phố quá chật chội, nóng bức. Anh ta không hề có một ý thức cao, một tinh thần trách nhiệm đối với công tác, anh chỉ là một kẻ làm thuê ăn lương.

Chó sói là một mối đe dọa cho bầy chiên. Chúa Giêsu đã bảo với các môn đệ, Ngài sai họ đi như chiên vào giữa bầy muôn sói (x. Mt 10,16). Phao lô cảnh cáo các trưởng lão tại ĐẾN-phê-xô rằng bầy sói dữ sẽ đến tấn công, không dung tha đàn chiên ()x, Cv 20,29). Nếu những con sói này đến tấn công, thì những kẻ chăn thuê sẽ chẳng còn nhớ gì ngoài mạng sống của họ và tìm cách bỏ chạy. Gia-ca-ri-a nhấn mạnh điều đó như đặc tính của kẻ chăn thuê, và bảo rằng hắn chẳng làm gì cả để tập họp những con chiên bị tan lạc lại (11,16).

Điều Chúa Giêsu muốn nói là người làm việc chỉ mong được khen thưởng sẽ nghĩ tiền bạc là trên hết, còn người làm việc vì yêu thương thì nghĩ đến những người mình muốn phục vụ hơn bất cứ điều gì khác. Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt, yêu mén chiên đến độ liều bỏ mạnh sống vì chiên, đến một ngày, Ngài đã hy sinh mạng sống Ngài cho chiên.

Trước khi kết thúc phần này, chúng ta có thể ghi nhận thêm hai điểm. Thứ nhất, Chúa Giêsu tự mô tả Ngài là người chiên tốt.

Trong tiếng Hi-lạp có hai từ nối: chữ agathos mô tả phẩm chất đạo đức của một vật nào đó; và chữ kalos cũng nói đến cái phẩm chất tốt, nhưng cũng có ý là trong cái tốt đó có cái gì thu hút hấp dẫn, khiến người hoăc vật ấy đáng yêu mến, đáng ưa chuộng. Khi Chúa Giêsu được mô tả là người chăn chiên tốt (bản Việt văn dịch là nhân lành), thì từ ngữ được dùng là kalos. Trong Chúa Giêsu có một cái gì vượt hẳn con người tháo vát thành công, con người trung tín tận tụy, trong Ngài còn có vẻ đáng yêu đáng mến nữa.

Thỉnh thoảng người ta đề cập đến một lương y, gọi thế, chẳng những người ta ngụ ý đó là bác sĩ tài ba, mà còn đến cả thái độ ưu ái, dịu hiền, tận tụy, gắn liền với con người ông, khiến ông được lòng mọi người. Câu châm ngôn cho thầy thuốc “Lương y từ mẫu” thật đáng chú ý. Trong bức tranh về Chúa Giêsu ở đây với tư cách người chăn chiên tốt, Ngài chẳng những đầy sức mạnh, quyền năng, mà còn hiền lành mà đáng kính đáng yêu nữa.

Điểm thứ hai trong hình ảnh này, bầy chiên chỉ về hội thánh của Chúa Giêsu. Bầy chiên dễ gặp hai điều nguy hiểm. Nó dễ bị muông sói và trộm cướp tấn công từ bên ngoài, và có thể bị kẻ chăn thuê làm hại từ bên trong. Thật là thảm họa cho bầy chiên khi gặp kẻ lãnh đạo xấu, những kẻ chăn xem việc kêu gọi như một thứ nghề nghiệp chứ không là cơ hội để phục vụ. Cái nguy thứ hai này tệ hại hơn nhiều, vì nếu có được một người chăn tốt, trung thành, sẽ có một công cuộc phòng thủ vững chắc đối lại tấn công từ bên ngoài vào; nhưng nếu là kẻ chăn bất trung, chăn thuê, thì những kẻ thù bên ngoài rất dễ xâm nhập và tàn phá bày chiên. Điều quan trọng nhất trong Hội Thánh là, cấp lãnh phải theo gương Chúa Giêsu là người chăn tốt.

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

+++

A. DẪN NHẬP

Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.

Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là Mục tử nhân lành” (Ga 10, 14).

Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như mục tử ở giữa đàn chiên. Sự hiện diện của Ngài không phải là sự hiện diện của một người lãnh đạo đầy tham vọng, cũng không phải là sự hiện diện của một người cầm đầu mong được tung hô, nhưng là sự hiện diện của một người mục tử sống chỉ vì đoàn chiên và chỉ lo cho đoàn chiên được nuôi sống và được sống dồi dào.

Chúa Giêsu là mục tử nhân lành tối cao, Ngài lo cho mọi con chiên, nhưng Ngài cũng muốn dùng con người làm mục tử thay mặt Ngài mà săn sóc cho đàn chiên như khi Ngài nói với thánh Phêrô: “Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”.

 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Cv 4, 8-12

Sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào Đền thờ.

Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.

Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ, nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.

+ Bài đọc 2: 1Ga 3, 1-2

Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa đã bày tỏ cho chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.

+ Bài Tin mừng: Ga 10, 11-18

Trong những người nghe Đức Giêsu giảng, có nhiều thính giả là người chăn chiên. Đức Giêsu muốn giới thiệu mình là mục tử nhân lành đối với đàn chiên. Ngài muốn so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.

* Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này:

a) Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.

b) Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.

c) Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.

* Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.

 

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Ta là Mục tử nhân lành

I. MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH

1. Trong Cựu ước

Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:

Đức Giavê là Mục tử tôi,
Tôi không còn thiếu gì.
Dù phải đi qua thung lũng tối đen
Tôi cũng không hề lo sợ. (Tv 23, 1-4)

Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).

Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xảy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chúa nói lên:

“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (Ez, 2-4, 9-10, 23).

2. Trong Tân ước

Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói: “Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36; Mc 6, 34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên... Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.

Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3, 15; Ez 34, 23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.

II. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế, việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định: “Ta là Mục tử nhân lành”.

Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:

1. Người chăn chiên thuê

Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên, nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên, nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.

Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.

2. Người chủ chăn

Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:

a) Hiệp thông với đàn chiên

Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh, nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.

Truyện: Con mắt của vị hoàng đế

Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu uý, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu uý vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.

Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu uý bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu uý đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.

Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xóa tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu uý có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.

Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật và Lễ trọng, tr 136).

b) Quy tụ và hợp nhất đàn chiên

Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác quy tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội.

Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp, để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới: “Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn... và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.

Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành

Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.

Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới… Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa. (Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)

c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên

Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xảy ra cho chiên, người ấy phải trưng bày bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp quy định: “Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng” (Xh 22, 12). Ở đây muốn nói là kẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.

Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.

Truyện: Liều mạng cứu chiên

Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu, để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.

 

III. KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ

1. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng.

Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai toà tại Rôma, các Tông đồ và mọi tín hữu phải quy phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.

Truyện: Quo vadis?

Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:

- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?

Chúa Giêsu trả lời:

- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.

 

2. Sứ vụ các Giám mục, Linh mục

Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục, Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.

Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.

Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.

 

3. Sứ vụ của mọi Kitô hữu

Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào?

a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung

Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình.

b) Trong đời sống gia đình nói riêng

Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, Giáo xứ.

Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.

 

4. Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu

Đức Giêsu muốn quy tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly: “Xin cho chúng hiệp nhất nên một” (Ga 17, 23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.

Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).

Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhất này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Watson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân Đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Watson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

HY SINH MẠNG SỐNG VÌ CHIÊN

Nơi bìa trước của cuốn Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo

có một hình vẽ bằng những nét phác họa đơn sơ.

Hình này dựa trên bức khắc của một phiến đá ở ngôi mộ cổ,

trong hang toại đạo ở Rôma, vào cuối thế kỷ thứ ba.

Ta thấy hình một người chăn chiên đang ngồi.

Một con chiên nằm ở kề bên, quay mặt vào anh.

Người chăn chiên tượng trưng cho Đức Giêsu Mục tử.

Tay trái Ngài cầm chiếc gậy để dẫn dắt và bảo vệ chiên,

Tay phải Ngài cầm chiếc sáo đưa gần miệng,

thu hút con chiên với cung điệu du dương.

Cả người chăn chiên và con chiên đều ở dưới bóng cây.

Đây là “cây sự sống”, cây Thánh giá cứu chuộc nhân loại.

Hình ảnh Người Mục tử an bình bên cạnh con chiên

cho thấy linh hồn người đã khuất cũng mong được an nghỉ

trong hạnh phúc của cuộc sống vĩnh hằng.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

hai lần Đức Giêsu ví mình với người mục tử tốt (Ga 10, 11.14).

Năm lần Ngài nhắc lại nét đặc trưng của người mục tử:

đó là hy sinh mạng sống cho đàn chiên (Ga 10, 11.15.17.18).

Ai cũng quý mạng sống mình hơn nhiều thứ khác.

Đức Giêsu khẳng định: chỉ ai yêu bằng tình yêu lớn nhất

mới dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu (Ga 15, 13).

Như thế mục tử tốt là người coi chiên như bạn,

và yêu chiên bằng một tình yêu lớn lao.

Đàn chiên “thuộc về” người mục tử, là một với người ấy,

nên người mục tử dám sống chết với đàn chiên.

Đây là điểm khác biệt giữa vị mục tử và anh chăn thuê:

Anh chăn thuê không quan tâm đến chiên,

vì chiên “không thuộc về” anh, nhưng thuộc về ông chủ.

Vì không chút gắn bó với chiên, nên khi sói dữ đến,

anh chăn thuê bỏ chiên mà chạy, mặc đàn chiên tan tác.

Anh ta coi mạng sống mình trọng hơn chiên.

Còn người mục tử tốt thì coi chiên trọng hơn mạng sống.

 

Trong Cựu Ước, Đấng Mêsia bởi dòng Đa vít là một mục tử.

Người mục tử có nhiều trách nhiệm với chiên:

săn sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng chiên là đoàn dân thánh,

nhưng không thấy Cựu Ước nói đến chuyện hy sinh mạng sống.

Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia, vị Mục tử do Cha sai đến.

Trong cuộc chiến bảo vệ chiên chống lại sói dữ,

vị Mục tử Giêsu có vẻ như đã thua cuộc,

thậm chí, Ngài đã chết trong cuộc chiến ác liệt này.

Nhưng Đức Giêsu cho thấy Ngài không thua cuộc.

Ngài chết không phải vì ở thế yếu,

nhưng để vén mở một tình yêu tự nguyện:

“Mạng sống này, không ai lấy đi khỏi tôi,

nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình (Ga 10, 18).

Cái chết không phải là một thất bại,

nhưng là để cho thấy quyền năng của Đấng phục sinh:

“Tôi có quyền hy sinh mạng sống, và có quyền lấy lại.

Đó là mệnh lệnh tôi đã nhận từ Cha tôi.”

Cứ sự thường, khi mục tử chết thì đàn chiên cũng tan.

Nhưng Mục tử Giêsu chết để đàn chiên được nguyên vẹn:

“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28).

Ngài chết để quy tụ những chiên chưa thuộc về ràn,

những chiên chưa nhận biết được tiếng của Ngài.

Ước mơ của Ngài là sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục tử.

 

Trong Chúa nhật hôm nay, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu Mục tử,

chúng ta cầu cho các vị mục tử trong Hội Thánh

được ơn hiểu biết nhu cầu của chiên và quan tâm đến chiên,

dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và bảo vệ chiên khỏi sói dữ,

đưa chiên lạc về một ràn và hy sinh mạng sống mình vì chiên.

Nhờ đó cả nhân loại thành đoàn chiên của Thiên Chúa.

 

LỜI NGUYỆN

 

Lạy Chúa Giêsu,

Xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

 

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

 

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

 

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời đang gần bên. Amen.

Top