Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật Tuần thứ 3 Mùa Chay năm B
3rd Sunday of Lent
Reading I: Exodus 20:1-17 II: 1Cor 1:22-25
Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Bài Đọc I: Xuất Hành 20:1-17 II: 1Cr 1:22-25
----o0o----
Gospel
John 2:13-25
13 The Passover of the Jews was near, and Jesus went up to Jerusalem.
14 In the temple, he found people selling cattle, sheep, and doves, and the money changers seated at their tables.
15 Making a whip of cords, he drove all of them out of the temple, both the sheep and the cattle. He also poured out the coins of the money changers and overturned their tables.
16 He told those who were selling the doves, "Take these things out of here! Stop making my Father's house a marketplace!"
17 His disciples remembered that it was written, "Zeal for your house will consume me."
18 The Jews then said to him, "What sign can you show us for doing this?"
19 Jesus answered them, "Destroy this temple, and in three days I will raise it up."
20 The Jews then said, "This temple has been under construction for forty-six years, and will you raise it up in three days?"
21 But he was speaking of the temple of his body.
22 After he was raised from the dead, his disciples remembered that he had said this; and they believed the scripture and the word that Jesus had spoken.
23 When he was in Jerusalem during the Passover festival, many believed in his name because they saw the signs that he was doing.
24 But Jesus on his part would not entrust himself to them,
25 because he knew all people and needed no one to testify about anyone; for he himself knew what was in everyone.
Phúc Âm
Gioan 2:13-25
13 Lễ vượt qua của người Do thái gần đến, và Đức Giêsu lên Giêrusalem.
14 Ngài gặp thấy trong đền thờ phường buôn bò, cừu, bồ câu, và quân đổi bạc ngồi đó.
15 Ngài mới lấy giây thừng làm roi mà xua đuổi hết thảy ra khỏi đền thờ cùng với cừu và bò của họ;
16 và bảo quân bán bồ câu: "Hãy cất khỏi đây các vật ấy, đừng biến nhà Cha ta thành một cái chợ."
17 Môn đồ nhớ lại là có chép rằng: "Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả mình tôi."
18 Vậy người Do thái lên tiếng nói với Ngài: "Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng tôi thấy là ông có quyền như thế?"
19 Đức Giêsu đáp lại và bảo: "Phá đền thờ này đi! Và trong ba ngày ta sẽ dựng lại!"
20 Người Do thái nói: "Phải mất bốn mươi sáu năm, đền thờ này mới được dựng nên, thế mà trong ba ngày, ông sẽ dựng lại được ư?"
21 Còn Ngài, Ngài đã nói về đền thờ thân mình Ngài.
22 Vậy khi Ngài sống lại từ cõi chết, môn đồ Ngài đã nhớ lại là Ngài đã nói thế, và họ đã tin vào Kinh thánh và lời Đức Giêsu đã nói.
23 Trong thời gian Ngài ở tại Giêrusalem vào dịp Vượt qua, thì trong đám người chầu lễ đã có lắm kẻ tin vào Danh Ngài, bởi được chứng kiến các dấu lại Ngài làm.
24 Nhưng Đức Giêsu không tín nhiệm vào họ vì Ngài biết họ hết thảy,
25 và không cần phải có ai tuyên chứng về người ta, vì chính Ngài, Ngài đã biết có gì nơi con người ta.
Interesting Details
• (v.14) The temple cleansing incident occurred in the outer court, the court of the Gentiles, of the Jerusalem Temple. The cattle, sheep, and doves were sold for sacrifice. Roman money, the dinarii, was changed into Jewish money to pay the temple tax, which was a half-shekel (Mt 17:27).
• The presence of the animals and the money changers constituted a desecration to the temple: "Stop making my Father's house a marketplace" (v.16).
• The evangelist composed this passage by putting together three incidents: the temple cleansing, the request for sign, and the temple destruction prophesy. In the Synoptic Gospels, these incidents were located in separate narratives, and the temple cleansing was the immediate cause for Jesus' death.
• This passage contained two sections:
a. Jesus' action, vv. 14-15; Jesus' words, v.16; "remembering" of the disciples, v.17.
b. The Jews's action, v.18, Jesus's words, v.19; misunderstanding of the Jews and comment by the evangelist, vv.20-21; "remembering" of the disciples v.22.
• (v.17,22) "Remembered" is a special term in John, indicating a process by which John's community came to see how Jesus fulfilled the Scripture. They came to understand his zeal's for "[his] Father's house" (v.16), his suffering and death (v.19), and his resurrection (v.21).
Chi Tiết Hay
• (c.14) Sự kiện thanh tẩy đền thờ xảy ra tại sân ngoài của đền thờ, gọi là sân của Dân ngoại. Các súc vật, chiên, và bồ câu được dùng cho lễ tế của người Do thái. Ngoài ra, người ta phải đổi tiền Rôma, đồng dinarii, sang tiền Do thái để nộp thuế "đền thờ". Thuế đó tốn mất nửa đồng bạc Do thái (Mt.17:27).
• Sự hiện diện của thú vật và những người đổi tiền đã làm ô uế đền thờ: "Đừng biến nhà Cha ta thành một cái chợ" (c.16).
• Để soạn tường thuật này, tác giả của Phúc âm Gioan đã nối kết ba biến cố: thanh tẩy đền thờ, người Do thái đòi hỏi dấu lạ, và công bố về sự phá hủy đền thờ. Trong các Phúc âm Nhất lãm, ba biến cố đó xảy ra trong những tường thuật riêng biệt, và việc thanh tẩy đền thờ là nguyên nhân trực tiếp đưa đến cái chết của Đức Giêsu.
• Đoạn Kinh thánh này gồm hai phần đi đôi với nhau:
a. Hành động của Đức Giêsu (cc.14-15); lời nói của Đức Giêsu (c.16); các môn đồ "nhớ lại" (c.17).
b. Hành động của người Do thái (c.18) ; lời nói của Đức Giêsu (c.19); người Do thái hiểu lầm và tác giả phải giải thích (cc.20-21); các môn đồ "nhớ lại" (c.22).
• (c.17, 22) "Nhớ lại" là một động từ đặc biệt trong Phúc âm Gioan; nó chỉ một quá trình mà cộng đoàn Gioan phải vượt qua để có thể nhận ra rằng Kinh thánh đã được thành tựu nơi Đức Giêsu (NJBC). Và rồi họ hiểu được "lòng nhiệt thành với nhà Chúa" của Ngài (c.16), hiểu được sự đau khổ và cái chết của Ngài (c.19), và hiểu được sự phục sinh của Ngài (c.21).
One Main Point
Faith in Jesus: The disciples remembered what Jesus said and done, and "they believed in the scripture and the word that Jesus had spoken." (v.22).
Một Điểm Chính
Đức tin vào Chúa Giêsu: Các môn đồ nhớ lại những gì Ngài đã nói và đã làm, và "họ đã tin vào Kinh thánh và lời Đức Giêsu đã nói" (c.22).
Reflections
1. Imagine that you are a high priest in the Jerusalem Temple, and you are witnessing the temple cleansing incident. What do you see? What do you hear? How do you feel?
2. After the resurrection, the disciples came to believe in Jesus. What experiences do you have to believe in Jesus?
Suy Niệm
1. Đặt mình vào khung cảnh đền thờ: bạn là "thầy cả", đang chứng kiến sự việc thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu. Bạn nhìn thấy gì? Nghe thấy gì? Cảm thấy gì?
2. Sau khi Đức Giêsu phục sinh, các môn đồ đã tin vào Ngài. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào để minh xác niềm tin vào Đức Giêsu?
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr 1,22-25; Ga 2,13-25
MỤC LỤC
1. Đền thờ
2. Thanh tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây
4. Bắt đầu lại trong sự thật – Jean-Yves Garneau
5. Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp
6. Thánh Đường, điểm hẹn
7. Nhà của Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone
8. Giữ trong sạch nhà Cha – Noel Quesson
9. Đền thờ
10. Con người và Đền Thờ
11. Đền thờ
12. Thanh tẩy
13. Đền thờ
14. Thanh tẩy Đền Thờ
15. Cơn tức giận
16. Đức Giêsu tại Samari- JKN
17. Suy niệm của Đan Vinh
18. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
19. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
20. Chú giải của Noel Quesson
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
22. Chú giải của Fiches Dominicales
------o0o------
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
2. Thanh tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật
Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng
Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta
Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
3. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây (Trích trong ‘Manna’)
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc! Dù rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng, nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn, một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ. Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi lẽ đó là đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19). Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!" Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa không?
• Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
4. Bắt đầu lại trong sự thật – Jean-Yves Garneau
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
5. Đền thờ đích thật của sự thờ phượng và tập hợp (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc âm của thánh sử Gioan nói về Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa mà người ta khó lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử khác. Các thánh sử này biên soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một các khác những tài liệu do đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra ở đây về sự phù hợp giữa những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất lãm nói. Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ tan biến một khi người ta nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí chung từ một sự kiện riêng rẽ. Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không có tính cách giai thoại. Bằng cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan trình bày ở đây cho chúng ta thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho chúng ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng các kẻ buôn bán trong Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho chúng ta: 1. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích thân kế tiếp thực- tại tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chúa xử sự trong Đền thờ với một uy quyền mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa sai đến và người Do Thái hằng mong đợi, mới dám tự cho mình như vậy, Người xuất hiện như trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người. Trước mắt người Do thái đương thời thì đó là đặc quyền dành cho Đấng Thiên Sai. Họ quả không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc Thiên Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa biết họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá tìm sâu rất nhiều câu nói sau đây của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa tiệm buôn bán”. Dĩ nhiên khi người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa. Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán thật sự này nọ. Ví dụ, khi người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ khi đó, người ta có quyền dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách thế tục, dầu là ở lãnh vực chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá Đền thờ này, trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho người Do thái khi họ đòi hỏi Người một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự phục sinh của Người. Quả thật, Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà chính các môn đệ cũng không hiểu ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại. Sau này, họ sẽ hiểu là Đền thờ vật chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị phá huỷ, sẽ trở thành vô ích. Nó sẽ bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền thờ khác sẽ được dựng lên cho việc tế lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó, chính là bản thân Chúa Giêsu. Người đích thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của sự ngợi khen và đền tạ. Người quy tụ nơi mình Người tất cả chúng sinh trong một sự hiệp thông chặt chẽ và phổ quát. Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích thật) và anh em ta (cách sâu sắc) ở đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến quãng thời gian vắn vỏi giữa cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu nói ‘Ba ngày’ này còn có cái lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày nay, chúng ta quen nói: ‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa thôi. Chúa Giêsu phán: ‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và khi nào Người muốn, Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta có thể nghĩ đến thân xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa. Nó sẽ bị cái chết phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục sinh? Chúng ta biết rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính toán của con người đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
6. Thánh Đường, điểm hẹn (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng, là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác, ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ, không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh mất ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn “việc của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước mười điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp, giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai ương hoạn nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
7. Nhà của Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi”. Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây, trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời. Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền xướng rước lễ hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
8. Giữ trong sạch nhà Cha – Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
9. Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như thế. Thực vậy, công việc của những người buôn bán và đổi tiền là công việc đem lại lợi ích cho đền thờ và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định, thì vào những dịp lễ lớn, người Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận thờ kính đối với Đức Giavê. Họ từ khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước hành hương trở về Giêrusalem. Cũng trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và đóng thuế cho đền thờ. Lễ vật có thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng tài chính của mỗi người. Bởi đó, muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông dụng tại Giêrusalem. Muốn có những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm. Biết đâu, chính Mẹ Maria và thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi dâng tiến Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ mua bán đổi chác không những không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc cho đền thờ. Hơn nữa, mặc dù Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa, nhưng cơn giận ấy không phải sẽ được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn cảnh cụ thể như thế, vì Chúa Giêsu ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa của lòng từ nhân và bao dung, như lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là mục đích mà Chúa Giêsu muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi đánh đuổi phường buôn bán, Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên tri, một biểu tượng nhằm đưa chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa hơn. Các nạn nhân của Ngài cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông có thể đưa ra dấu hiệu nào để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã đưa ra dấu hiệu để biện minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu được: thân xác Ngài sẽ chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy, Ngài muốn nói lên rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn.
Với tiền bạc, họ có thể mua được những lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa ra: Ngài sẽ phải chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái uy lực thực sự mà con người phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình, Chúa Giêsu đã đưa con người từ quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy lực của Thiên Chúa. Đó chính là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi trong Mùa Chay, chúng ta hãy nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã thực hiện cuộc đổi mới này như thế nào.
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống, tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã xác định rõ đền thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là chỗ để giao dịch buôn bán. Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về việc tôn kính Nhà của Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng ta càng phải cẩn trọng và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi dành riêng cho sự thờ phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử dụng di động trong nhà thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong nhà thờ là hoàn toàn không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính Chúa Giêsu Thánh Thể đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để cầu nguyện hoặc đừng vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện, sống thân tình với Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện thoại di động vào nhà thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc cầu nguyện của chúng ta.
Với tư cách là một linh mục, trong thánh lễ, tôi đứng ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn xuống dân chúng ở phía dưới, tôi thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử hành bí tích Thánh thể. Theo tôi, họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến vấn đề tôn kính Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các phương tiện kỹ thuật và phải khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng. Chúng ta hãy tôn kính nhà thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện, chúng ta hãy bỏ điện thoại di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi quả quyết với bạn, trái đất này vẫn tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện thoại di động trong túi áo của bạn. Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn không trả lời các tin nhắn khi chúng được gửi đến cho bạn.
12. Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của con cái Chúa.
13. Đền thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ
Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa.
Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
Bối cảnh Tin Mừng mô tả về một Đức Giêsu đang nóng giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức Giêsu không phù hợp với hình ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi cười. Dường như điều này vượt xa tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong những bài Tin Mừng còn lại, đến nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng tính cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác. Tất nhiên, Đức Giêsu là một người hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Người yếu đuối. Khi cơ hội đòi hỏi, Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc khi nhận thấy Đức Giêsu không chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử dụng một hình thức như thể là bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả mọi cơn nóng giận đều xấu xa cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác, vì thế, nó không tốt và cũng chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là một điều nguy hiểm, có thể khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động mà chúng ta sẽ phải hối tiếc sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều tốt đẹp. Nó có thể thúc đẩy chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều sai trái tỏ tường. Có những lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức giận trước một tình huống bất công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào những điều khiến cho chúng ta tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường được mức độ tâm hồn của một con người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó tức giận. Hầu hết cơn nóng giận của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá nhân, và chúng ta thường tức giận về những điều vặt vãnh.
Một người đàn ông sống tại vùng ngoại ô của một ngôi làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn 10 mét, có trồng một cây chanh lớn. Cây chanh này là ranh giới của ngôi làng. Tuy nhiên, nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó gãy đổ. Mỗi khi có bão táp, người đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và mạng sống của mình. Ngày kia, không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa, ông ta đốn hạ cây chanh xuống. Ông tin chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông. Nhưng ông đã lầm: Một người nói “Ông thật xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây tuyệt đẹp như vậy”.
Một người khác nói “Ông đã tước đoạt của dân làng một phần gia sản”. Tuy là một cách ngoài lề, nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý riêng của họ bị đe dọa thật đáng ngạc nhiên. Nhưng khi sở thích của những người hàng xóm bị đe dọa, thì rất ít khi họ nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận vì lý do cá nhân. Cơn nóng giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối với Thiên Chúa và đối với mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được coi như một sự phản đối lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh của đền thờ. Nhưng điều này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống đối việc người Do thái không hoàn tất sứ vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo đã trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi quốc gia”, nhưng lại trở thành một nơi được bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng cho dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ dành riêng cho người Do thái, mà còn dành cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn công vào chính bản chất thờ phượng của người Do thái. Với các lễ nghi và hiến tế súc vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền thờ không còn phù hợp nữa, và không thể làm được gì để đưa con người đến với Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều, hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ vật, và biểu diễn một số lễ nghi. Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái độ thờ phượng trong cuộc sống của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biến ngôi nhà này thành một ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin cho những việc chúng ta thực hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến - và chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật “.
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã đến - và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”
17. Suy niệm của Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn với tiền bạc, chiên bò, chim câu... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và sẽ tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ phượng tại Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy sau này.
2) Chú thích:
* Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò r a khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 13-15):
- Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem: Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên vượt qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa dùng Môsê, giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai cập.
- Người thấy trong Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu hỏi: Theo lịch sử dân Ítraen thì đã có bao nhiêu Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem và cấu trúc của các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp: Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ Hêrôđê như sau:
Đền thờ Salômon: Dưới triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã được đem về Giêrusalem, nhưng vẫn còn được để giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x.2 Sm 6,17). Vua Đavít muốn xây một Đền Thờ để kính Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ dành việc xây dựng ấy cho con của ông (x.2 Sm 7,2.13). Sau đó, vua Salômon đã thực hiện ý định của vua cha Đavít vào năm 970 và Đền Thờ đã được hoàn tất sau 7 năm thi công (1 V 6,37-38). Đền Thờ này nằm giữa một khu đất rộng là Sân Trước. Tại đây có Bàn Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x. 1 V 8,64). Đền Thờ có chiều dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước và chiều cao mười lăm thước, gồm Gian Tiền Đình, Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại Gian Cung Thánh có Bàn Thờ Hương, Bàn Bánh Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x. 1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi Cực Thánh nằm giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá hương và được dát bằng vàng ròng (x.1 V 6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia Giao Ước được đặt ngay dưới đôi cánh của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm 586 trước Công Nguyên, quân Babylon xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền Thờ Salômon này cũng bị phá hủy. Các báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt mang về Babylon.
Đền thờ sau lưu đày: Được xây trên nền của Đền Thờ cũ và kích thước cũng như trước. Đền Thờ này kém bề thế hơn và Nơi Cực Thánh để trống không. Trong Gian Cung Thánh có đặt một Chân Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn đèn như trong Đền Thờ Salômon trước đó. Dân hồi cư trước hết đã tái lập Đền Thờ Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền Thờ Kéo dài trong 5 năm và được thánh hiến vào năm 515 trước Công Nguyên. Năm 169 Đền Thờ này lại bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt và xúc phạm. Đến năm 164, Giuđa Máccabê đã thanh tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ Toàn Thiêu mới và trang hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền thờ Hêrôđê: Để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, Hêrôđê đã mở rộng chu vi và trang trí lại bên trong Đền Thờ. Công việc trùng tu Đền Thờ bắt đầu từ năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm xong và được tổ chức khánh thành các công trình chính (x.Ga 2,20). Sau đó việc trùng tu Đền Thờ lại tiếp tục đến năm 63 sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về mặt cấu trúc: Đền Thờ có bốn hàng cột nằm ở ba mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có hành lang Salômon (x. Cv 3,11; 5,12); Phía Tây Bắc có pháo đài Antônia thông ra sân ngoài. Nơi đây thường xuyên có một tiểu đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục đích giữ gìn an ninh trật tự trong các dịp lễ lớn của dân Do Thái và sẵn sàng trấn áp bạo loạn (x. Cv 21,31-37). Đền Thờ có bốn cổng lớn. Một bức tường bằng đá được dùng làm ranh giới cấm lương dân vượt qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân: Bên ngoài bức tường đá là sân lương dân, là nơi các luật sĩ thường lui tới bàn luận với nhau (x. Cv 3,11). Sân nữ giới nằm giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn thông với Cửa Đẹp (x. Cv 3,2). Tiếp theo là sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối cùng là sân Tư Tế. Tại đây có đặt một Bàn Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước, toàn bộ thánh điện được thiết kế giống như Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Về số phận của Đền Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của Đền Thờ này (x. Lc 21, 5-7). Người cũng báo cho các tín hữu biết trước về ngày thành Giêrusalem bị quân thù kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt. Sự kiện này được coi như hình bóng của Ngày Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật, lời tiên báo của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và quân Rôma do tướng Titô chỉ huy đã đến bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06 tháng 8 năm 70, thành đã bị thất thủ. Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã ném một bó đuốc vào trong Đền Thờ, lửa bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh và toàn bộ Đền Thờ đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh như chân đèn 7 ngọn và Bàn Thờ Dâng Bánh còn sót lại và được mang về Rôma như chiến lợi phẩm (x. Dcr 14,1).
- Có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho một số người bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật cúng tế trong Đền Thờ (x. Ga 2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rôma lưu hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký hiệu của hoàng đế Xêda (x. Lc 20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân Do Thái muốn đóng thuế Đền Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì trước hết phải đổi từ tiền của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi mới được đóng góp (x. Ga 2,14).
- Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do bọn con buôn gây ra như thế khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng giây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành roi rồi dùng roi ấy đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
* Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2,16-19):
- "Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. "Nơi buôn bán" hay "hang trộm cướp" là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa! Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (x. Gr 7,11).
- "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân": "Sẽ phải thiệt thân" nghĩa là "sẽ phải chết". Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x.Ga 15,5).
- Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?": "Người Do Thái" trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ như các Tư Tế và Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựavào dấu lạ nào để chứng minh mình được Thiên Chúa sai đến thực sự và có quyền xua đuổi con buôn như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh Người được Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm phép cho họ thấy mà tin Người (x. Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
- "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại": Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu xử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
* Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chổi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói (Ga 2,20-22):
- Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu do Caipha chủ tọa có hai kẻ đứng ra cáo gian rằng: "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Họ cũng nhắc lại điều tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập gía (x. Mt 27,40).
- Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân Thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23-24).
- Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (x. Ga 12,16; 14,26).
- Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói: Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu tiên báo đều đã được ứng nghiệm (x. Ga 18,9.32). Do đó cả hai đều được các môn đệ tôn trọng.
* Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người (Ga 2,23-25):
- Nhiều kẻ tin vào danh Người. Nhưng chính Đức Giêsu lại không tin họ: Phép lạ chỉ kích thích trí tò mò làm cho người ta đến xem để biết thực hư ra sao. Nhưng đức Tin là bởi nghe (x. Rm 10,17) chứ không bởi thấy, như lời Đức Giêsu Phục Sinh nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng tin Đức Giêsu vì đã thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy như vậy là đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giêsu không mấy tin các tín hữu này. Thực vậy, khi bị xét xử trước tòa quan Philatô, trong số đám đông dân chúng đòi kết án tử hình thập gía cho Đức Giêsu, chắc không thiếu những kẻ đã từng tin và hoan hô Người là "Con Vua Đavít", "Đấng nhân Danh Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). Đàng khác, không phải cứ trông thấy phép lạ là người ta sẽ tin. Các kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng kiến bao phép lạ người làm, thế mà họ đâu có tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ xuyên tạc để lôi kéo dân chúng đừng tin theo Người, như nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ" (Mc 3,22).
- Người biết họ hết thảy: Thánh gioan đã ghi lại nhận xét này khi thấy dân chúng nô nức đi theo Đức Giêsu. Người biết rõ ý của họ và đã nói thẳng với họ rằng: " Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê!" (Ga 6,26). Trong phép lạ chữa bệnh nhân bại liệt, Mátthêu cũng viết: "Đức Giêsu biết ý nghĩa của họ liền nói: Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. Đừng biến Nhà Cha tôi thành nơi buôn bán" (Ga 2,16):
Câu chuyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quan điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn hứa.
Suy nghĩ và thảo luận:
- Suy nghĩ: Câu chuyện trên dầu sao cũng nói lên một thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay bậc sống nào, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy cơ bị ngã gục trước sức mạnh của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như lời Chúa dạy: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21). Tiền bạc giúp người ta sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc!". Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ chức từ trên xuống dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ, truyền giáo, bác ái xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh... Tuy nhiên, "Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu". Bao lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được rất nhiều việc tốt đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên cũng được!". Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích cuộc đời mình. Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy giờ đồng tiền sẽ trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người dưới, bất nhân độc ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi tranh chấp quyền lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh doanh làm ăn, vô lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời sau...
- Thảo luận: Theo bạn thì việc thờ phượng Thiên Chúa tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội, Giáo Hội có cần tiền bạc không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo Hội có tiền bạc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như Đức Giêsu sắp đến viếng thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì trong tâm hồn của bạn để tránh bị Người nổi giận?
2) Tránh trở nên chướng ngại vật cản trở tha nhân tìm đến với Chúa:
Câu chuyện: Niềm tin của Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi còn là một sinh viên, Găngđi (Mahatma Gandhi) được du học tại Nam Phi một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Găngđi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc thật trong phần Bài Giảng Trên Núi. Ong rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân...Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo chính là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội An Độ quê hương của ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và sớm gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Găngđi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: "Đây là Nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến Nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin!". Găngđi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: "Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Người. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Người! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo đâu có hơn gì Ấn Giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!".
Suy niệm: Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta chắc cũng có lần trở thành một chướng ngại vật, ngăn cản anh chị em lương dân tìm đến gặp Chúa. Chỉ cần một lời nói sẵng giọng và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh dễ coi thường tha nhân, một hành động hẹp hòi ích kỷ trái với tinh thần quảng đại vị tha của Tin Mừng hoặc một gương mù gương xấu nơi vị chủ chăn...là có thể chúng ta đã xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó còn cơ hội nào khác để trở lại.
3) Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19):
Câu chuyện: Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn sốngvui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo. Ông chủ đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!...Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô: "Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10). Ông bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra uy nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, không ngại bị họ thù ghét làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắn hẳn Chúa đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số nười thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ thành một bãi rác lộ thiên. Rồi chó mèo tự do phóng uế làm mất vệ sinh chung sân Nhà Chúa. Rồi cả những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích và đàng điếm... gây cảnh ồn ào náo loạn làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng.
Lạy Chúa, nhất là thân xác của chúng con là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần đã trở nên nhơ uế khi chúng con suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Chúa, khi chúng con chiều theo các đam mê lạc thú bất chính mà phạm tội mất lòng Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn và thể xác nhờ siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình để biểu lộ tâm tình sám hối, quyết tâm đổi mới đời sống để mỗi ngày trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và sống hòa thuận yêu thương để trở thành anh chị em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Lạy Thánh Mẫu Maria, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho các đầu mục Do Thái về dấu lạ chứng minh Người có quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền Thờ. Đó là: " Cứ phá hủy Đền Thờ do tay người phàm xây dựng, và chỉ trong ba ngày tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác không phải do tay người phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy Mẹ, chúng con hiểu rằng Chúa muốn dạy chúng con: cần phải phá hủy con người cũ với những đam mê tội lỗi, để từ đó phát sinh ra một con người mới thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Những việc thờ phượng có tính hẹp hòi, nặng hình thức phải được thay bằng một tâm tình yêu mến tha thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ giúp chúng con thanh luyện và đổi mới cách thờ phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
18. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
1. Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3. Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- ... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
- Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
19. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour DẤU LẠ CỦA VIỆC THANH TẨY ĐỀN THỜ (2,13-22)
Cả bốn Tin Mừng đều trình thuật về Đền thờ (Mc 11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác, có nhiều điểm khác biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian: đối với Gioan, đó là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các sách Tin Mừng Nhất Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là tác giả duy nhất tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng việc người Do Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di dịch biến cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội của mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của người Do Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2 nhân dịp lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các tín hữu tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định quang cảnh và địa điểm. Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và Người lên đây đúng vào “lúc gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Dụng ngữ này, lặp lại ba lần trong Tin Mừng (6,4; 11,555) xác định sự chính xác về nguồn tin của Gioan. Ba lần lễ Vượt Qua phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Chúa Giêsu. Đem so chiếu với những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do Thái này có một ý nghĩa khác nơi con người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các hành lang trên sân Dân ngoại (tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ không phải bên trong Đền thờ. Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người ta muốn cho khách hành hương, nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được chiên bò dâng làm của lễ hiến tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những quyền của Thiên Chúa, xem điều đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc. 15-16)
Việc can thiệp của Chúa Giêsu liên kết với những hành động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ điệp cho có hiệu quả hơn. Nó gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động ở đây dồi dào hơn ở trong bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều chiên bò trong Đền thờ. Thời bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một chợ súc vật dùng làm của lễ dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh tục hóa như thế, Chúa Giêsu chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như Giêrêmia (7,14), Malakhi (3,1) hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người chứng tỏ việc tẩy uế Đền thờ được tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến hành.
Lời Người nói có hai phần: Trước hết Người yêu cầu chính đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa. Lời này không hẳn là một trích dẫn Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến trong Zacaria 14,21: “Vả trong ngày đó sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ Chúa quân lực nữa”. Ở đây Chúa Giêsu hành xử như Người bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa. Người vén lên bức màn về mối liên hệ duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu đáp ứng yêu cầu dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về Đền thờ. (không phải hieron nữa, mà là naos, nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các sách Tin Mừng Nhất Lãm về vấn đề này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm có một câu gần gũi với câu trên nhưng với những điều khác biệt quan trọng: trong Nhất Lãm, lời tuyên bố về việc phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng gian hiểm độc nói lại; còn trong Gioan, lời này được đặt vào trong môi miệng Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Maccô, việc phá hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu: “Tôi sẽ phá” (14,58); trong Tin Mừng Gioan, lời nói đó đối đáp với những người đối thoại: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi”. Ngoài ra Gioan cố ý dùng cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại Đền thờ này” để chỉ công việc xây dựng cũng như để chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu được nền tảng lịch sử rõ ràng về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một hành động tượng trưng chống lại các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của các người đổi bạc là cần thiết để khách hành hương có thể đổi những đồng bạc mang dấu ấn triều đình để lấy đồng tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia súc dùng làm của lễ dâng cúng là một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng triệt để về việc thờ phượng do Chúa Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi theo chiều hướng đó. Chỉ cần lưu ý đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình Anna, thượng tế tiền nhiệm của Caipha. Bù lại, một sự công kích triệt để như thế về của lễ dâng cúng đã được cộng đoàn của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ bị phá hủy, đánh dấu sự kết thúc việc hiến tế.
Tác giả thận trọng về các vấn đề trên: ông để tâm đến việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào trong bài trần thuật của mình nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên quan mật thiết với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều kể đến một sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng không, đền thờ trống vắng. Mối liên hệ với lễ Vượt Qua được chú ý trong bài trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba, vinh quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời chú giải của thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong bài trần thuật những suy tư của riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn đệ của Người nhớ lại…” (2,17). Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi của Gioan, có đoạn sau:
“Anh em nhà kể con như người dưng nước lã
Hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu”.
Vậy nên, Gioan hiểu được sự cô đơn của Chúa Giêsu đối với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc của Người) cũng như hiểu được số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa của Chúa Giêsu đưa Người đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của thánh sử tiến dẫn nguyên nhân của sự phục sinh. “Các môn đệ nhớ lại…và tin”.
Trong bài trần thuật này, Đền thờ mới, Chúa Kitô, chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên soạn Tin Mừng), ta sẽ không khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh Thánh, các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP (2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên một sự chuyển tiếp khéo léo giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô. Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ với sự cương quyết dứt khoát với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần thuật về Cana và hành động ngôn sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong Đến thờ. Đồng thời sự cảm nghiệm thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân vật tiêu biểu của Do Thái giáo: ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn được xem như không thể tiếp bước theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người. Sự nghi ngờ này xảy ra ở giữa sự từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính cống và đức tin của các môn đệ. Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa Giêsu đã làm tại Giêrusalem (xem thêm 4,45)
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TẨY UẾ ĐỀN THỜ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của người Do thái gần đến”. Thời gian xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ Vượt qua trong đó Chúa Giêsu sẽ bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế Đền thờ và cuộc Tử nạn của Chúa Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47 ghi chú rằng việc can thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ thúc đẩy các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người".
"Người gặp thấy trong Đền thờ": Đền thờ gợi lên tất cả hệ thống phụng tự cổ xưa vốn tập trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại đó, các lái buôn bán súc vật để làm lễ hy tế riêng và những người đổi tiền đổi cho bạn tiền Do thái (tiền cũ của vùng Tyrô) là thứ tiền duy nhất được chấp nhận để trả thuế Đền thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ này cảm hứng từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn đối chọi hoàn cảnh hiện tại (‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn (‘một nhà cầu nguyện’), nên dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ lại": Các môn đồ chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc Thần khí đã cho họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ nghiến cả mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính trị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa, nhưng lòng nhiệt thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng sẽ còn trích dẫn thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn chia Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại là như sau: cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt thành đối với Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và cái chết cho bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và phụng tự cũ hầu xây dựng một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới (cc.19-20); việc đi từ cũ sang mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Người.
"Người Do thái": Trong thực tế, đây là các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh) có trách nhiệm về những chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi trong Tin Mừng của ông, Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do thái đã từ chối tin vào Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự của toàn dân Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động phi thường vốn sẽ biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38; 16,1; Mc 8,11 và Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái. Dcr 1,22 bảo người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi": Vì không tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi hỏi. Về sau câu nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong vụ án xử Người (Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới chân thập giá (Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng với câu Người trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người, Người đã nói về Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Chúa Kitô.Tín hữu thành Ephêsô, độc giả trực tiếp của Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và 12,27 (được viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là Đền thờ của Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của Phaolô, Đền thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh mà mọi tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục sinh từ cõi chết, môn đồ người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường ghi nhận là các môn đồ không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ hiểu rõ sau ngày Chúa Kitô phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh, họ mới nhận lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu các dấu chỉ Chúa Giêsu đã làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các môn đồ được liên kết với sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác thực của những gì Chúa Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí, Đấng duy nhất giúp cho họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh thánh": Ta không rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với Cv 2,24t; 13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn đối chiếu với sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là Kinh Thánh (lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện (so sánh Ga 18,9.32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những câu chuyển mạch nhằm chuẩn bị cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô; chúng giải thích việc Nicôđêmô đến (3,2), niềm tin bất toàn của ông và những lời Chúa Giêsu khiển trách ông (3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô như thế được đặt trong một khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là vậy: để ra một vài câu để đặt các trình thuật biểu tượng và thần học của ông trong một khung cảnh lịch sử: so sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21.40-42; 11,55-57; 12,17-19.41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh Người": Nhiều kẻ tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà thôi: nó không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang của Đền thờ và qua thân thể bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất hiện trong một thân xác người đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu ước Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu Phục Sinh mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chắp dây thừng làm roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà 20 năm về trước, Người đã vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của một người Israel khôn lớn. Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì bị nung nấu bởi lòng nhiệt thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng cách xứng đáng, vì bị thúc đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng "hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội nhân, Chúa Giêsu cũng là người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là một thượng thánh im lìm song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản ứng và tỏ ra kinh khủng khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2. Chúa Giêsu cũng muốn dùng phương pháp trên để giải phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ đích thực của Thiên Chúa hằng sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta hơn cả những nhà tâm phân học; biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô thức của chúng ta, biết các con vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết sức muốn giải phóng ra khỏi cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống sự sống thần linh. "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài hầu những ai tin vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3. Trong dịp lễ Vượt qua đầu tiên của đời sống công khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng khác với Môsê: Người thiết lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì danh Cha, Người muốn có một phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình yêu và tự do, một phụng tự tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được thi hành một cách tuyệt hảo: "Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến yêu Ngài trên hết mọi sự ".
4. "Hãy phá hủy Đền thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Nghĩa là thân xác Chúa Giêsu sẽ bị đánh dập nhừ tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong thực tế, vào ngày thứ sáu Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời này: Tên này đã nói: Ta có thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ xây cất lại (Mt 26,61). Tại đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà rằng: "Mày định triệt hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu mình đi" (Mt 27,41). Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ, trong đó, Chúa Giêsu đã dâng hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân loại. Trên thập giá, Người đã vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng một lúc; thành thử đối với chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân thể Chúa Kitô, trái tim Chúa Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể kết hợp với Chúa Kitô tư tế và hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo vật được giải phóng tuyệt hảo nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến thắng trong thân thể phục sinh của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng cố mãi mãi.
5. Người Kitô hữu là Đền thờ Thiên Chúa. Phạm tội là biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như thế xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết đền thờ tâm hồn chúng ta để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
22. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU XUA ĐUỔI NGƯỜI BUÔN BÁN RA KHỎI ĐỀN THỜ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa nhật trước trích từ Maccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục Sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của Israel (X.Léon-dufour, "Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy "trong đền thờ có những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ "Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách.
- Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất Lãm: "Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
- Lời giải thích rất ý nghĩa: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” - Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour, "L'evangile de Jean", Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ "nhà của Chúa”, mà Người nói "nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền Thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (từ ‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ "sống lại) X. Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà Người sẽ là kẻ xây dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean", cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói".
- Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân". Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
- Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết luận: "Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong cuốn "Nous avons vu Sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình: "Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại".
2. Một đền thờ mới xây dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn "100 mots pour dire la foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết, Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
bài liên quan mới nhất
- Giáng Sinh nơi tuyến đầu
-
Vui Giáng Sinh với bệnh nhân covid -
Ý nghĩa Thánh danh Giêsu - Maria - Giuse -
Mong mang chút hơi ấm -
Những cọng rơm khô đặt vào máng cỏ -
Giáng Sinh nơi giường bệnh -
Quà tặng Giáng Sinh đặc biệt trong mùa Covid -
Mùa Covid: Giáng Sinh đặc biệt khi ta làm những điều đặc biệt -
Cùng Chúa con vượt qua nỗi sợ -
Bài học từ cuộc đối thoại
bài liên quan đọc nhiều
- Kinh Rước lễ thiêng liêng
-
Đức Giáo hoàng chỉ cách phân biệt được Chúa hay Satan đang nói -
Cầu xin cùng Thánh nữ Corona trong cơn đại dịch corona -
Thánh Rôcô: Bổn mạng của các nạn nhân dịch bệnh -
Cầu nguyện theo Kinh thánh để chống lại dịch bệnh -
Tại sao đình chỉ việc cử hành Thánh Lễ giữa cơn đại dịch ? -
14 Chặng Đàng Thánh Giá trong đại dịch virus Covid-19 -
Ý nghĩa của thứ Tư Lễ Tro -
Chính xác, Chúa Giêsu chết vào ngày giờ nào? -
Lời cầu nguyện giúp vượt qua chán nản và trầm cảm