Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXX Thường niên B
30th Sunday in Ordinary Time
Reading I: Jeremiah 31:7-9 II: Hebrews 5:1-6
Chúa Nhật 30 Thường Niên
Bài Đọc I: Giêrêmia 31:7-9 II: Do Thái 5:1-6
-----o0o-----
Gospel
Mark 10:46-52
46 And they came to Jericho; and as he was leaving Jericho with his disciples and a great multitude, Bartimae'us, a blind beggar, the son of Timae'us, was sitting by the roadside.
47 And when he heard that it was Jesus of Nazareth, he began to cry out and say, "Jesus, Son of David, have mercy on me!"
48 And many rebuked him, telling him to be silent; but he cried out all the more, "Son of David, have mercy on me!"
49 And Jesus stopped and said, "Call him." And they called the blind man, saying to him, "Take heart; rise, he is calling you."
50 And throwing off his mantle he sprang up and came to Jesus.
51 And Jesus said to him, "What do you want me to do for you?" And the blind man said to him, "Master, let me receive my sight."
52 And Jesus said to him, "Go your way; your faith has made you well." And immediately he received his sight and followed him on the way.
Phúc Âm
Máccô 10:46:52
46 Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người hành khất mù, tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở vệ đường.
47 Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !"
48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi !"
49 Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây !" Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !"
50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.
51 Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được".
52 Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
-----o0o-----
Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - B
(Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52)
MỤC LỤC
1. Rào cản. 2
2. Người mù. 4
3. Xin thương xót tôi. 6
4. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 9
5. Chúa chữa anh mù Bactimê – ĐGM. Nguyễn Khảm 12
6. “Đức tin của anh đã cứu anh” - Yvon Daigneault. 16
7. Kể cả người mù cũng thấy – Charles E. Miller. 19
8. Suy niệm của Achille Degeest. 22
9. Mù dắt mù. 25
10. Nhìn cái tốt – Gm. Arthur Tonne. 29
11. Đức tin của con đã cứu con – Noel Quesson. 31
12. Mù loà. 33
13. Tin tưởng. 36
14. Mù loà. 40
15. Lòng tin. 43
16. Sự mù loà. 46
17. Vất bỏ. 49
18. Câu chuyện. 52
19. Suy niệm của JKN. 55
20. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 61
21. Chú giải của Noel Quesson. 70
Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.
Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.
Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?
Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.
Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.
Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.
Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.
Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.
Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.
Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.
Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.
Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ... Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.
3. Xin thương xót tôi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn. Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu. "Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại." Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn. Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến. Thấy là đi vào một con đường dài hun hút. Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời. Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?
• Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
4. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.
• Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.
• Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.
• Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.
Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn. Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.
Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.
Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.
Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.
Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.
2. Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh
3. Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?
4. Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?
5. Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?
5. Chúa chữa anh mù Bactimê – ĐGM. Nguyễn Khảm
Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục...” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.
Có một câu chuyện kể như thế này:
Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.
Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.
Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.
Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.
Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?
Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì? Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà. Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó. Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.
Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.
Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ... đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn. Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất. Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.
“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.
Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.
Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý. Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.
Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.
6. “Đức tin của anh đã cứu anh” - Yvon Daigneault.
Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.
Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.
Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.
Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?
Người mù thành Giêricô biết tin tưởng
Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.
Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.
Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.
Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.
7. Kể cả người mù cũng thấy – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.
Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Phúc Âm ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.
Bây giờ, chúng ta nhìn ra thế giới chung quanh chúng ta và nhìn xem nó với những ý nghĩa thật sự của nó. Chúng ta có thể nghe những người bi quan nhìn một cái ly và nhìn xem nó như là một nửa của sự trống rỗng và những người lạc quan thì nhìn cùng cái ly đó và thấy đó như là một nửa đã đầy. Một con người đức tin nhìn cái ly nước đó và nói: “Cám ơn Chúa”. Con người hiểu biết nước là một đặc ân lớn lao của Thiên Chúa, đặc ân này không chỉ là cần thiết để duy trì sự sống của con người, nhưng còn có nghĩa là Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào đời sống của Người qua phép rửa.
Chúng ta có thể thấy cha mẹ của chúng ta với tình yêu sâu xa dành cho đứa con, khi đứa trẻ nhìn vào gương mặt của cha mẹ nó. Xuyên qua đức tin chúng ta có thể nhìn thấy tình phụ tử đã giới thiệu chân lý là tất cả mọi sự trong đời sống đến với chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy những đứa trẻ thật đáng yêu bởi vẻ đẹp và sự đơn sơ của chúng. Đức tin dẫn chúng ta xuyên thấu những đứa trẻ để thấy chân lý này. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta là những đứa con quý giá của Người trong Đức Kitô.
Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Người nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.
Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta theo Đức Kitô tiến lên đồi Calvariô vì trong Thánh Lễ chúng ta ý thức mình đứng dưới chân thánh giá, thông dự vào hy tế của Đức Kitô. Thánh Lễ là một lời mời gọi chúng ta dâng hiến chính mình với Đức Kitô, tư tế tối cao của chúng ta, cho Cha trên trời để nài xin cho chúng ta được sống xứng đáng với đức tin Kitô giáo và chúng ta được trung thành và trung tín với Đức Kitô của Người cho đến chết.
Ngày hôm nay chúng ta có thể hỏi: “Chúng con sẽ đi đâu và chúng con sẽ nhìn vào ai?” Chúng ta có thể từ bỏ Đức Kitô, Đấng đã ban cho chúng ta đặc ân đức tin, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và là Đấng đã hứa cho chúng ta sự sống đời đời thế nào được? Khi chúng ta đạt được Nước Trời, chúng ta sẽ vui hưởng cái nhìn ân phúc của Thiên Chúa. Đức tin chuyển đổi ánh nhìn và chúng ta sẽ nói: “Bây giờ tôi đã thấy ý nghĩa của tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta”.
8. Suy niệm của Achille Degeest.
ĐỨC KITÔ KHÔNG CHỮA KHỎI MỌI TẬT BỆNH, NGƯỜI CHỮA KHỎI MỘT KẺ TẬT NGUYỀN.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.
Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình. Chúa chữa anh khỏi, chúng ta ghi lại hai điều:
1) Dừng lại, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy đến.
Người ta có thể nghĩ rằng Chúa sai các môn đệ gọi. Ta để ý ba giai đoạn trong quá trình đầu của sự việc người mù gặp Chúa. Biết Chúa ở đó, anh kêu lên để gọi Chúa. Đó là tiếng con người kêu lên với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu sai môn đệ chuyền đạt lời gọi của Người. Đức Kitô nói với nhân loại qua trung gian Giáo Hội của Người. Như vậy, giáo hội ngày nay là ai? Là chúng ta. Hai câu hỏi: chúng ta có quan tâm đừng bao giờ làm cái đập ngăn chận những tiếng kêu của người nghèo, họ la lớn về một phía Đấng họ cảm thấy không xa họ, tuy không nhìn thấy Người? Chúng ta có lo lắng kêu gọi người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất là Đức Giêsu Kitô không? Lời Đức Kitô kêu gọi thế giới vang dội xuyên qua Giáo Hội. Mối bận tâm của chúng ta phải hướng về đâu. Phải chăng chúng ta chỉ lo tranh luận dai dẳng về bản chất Giáo Hội và sự điều hành “định chế”? Giả sử số đông Kitô hữu, gồm cả cấp hữu trách trong Giáo Hội, có mối quan tâm hàng đầu là làm môn đệ Đức Kitô sống động và kêu gọi người ta đến gặp Chúa. Nếu vậy, những Kitô hữu ấy có bị tràn ngập dưới những vấn đề không? Về điểm này, hiến chế Ánh sáng muôn dân của Công đồng Vaticanô II, soi sáng chúng ta.
2) ‘Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?
Câu hỏi của Chúa có thể bị xem là một câu hỏi dị thường. Chúa biết rất rõ người mù chờ đợi sự gì ở Chúa, anh chờ Chúa chữa anh được sáng mắt. Kẻ tật nguyền đó đã kêu lên xin Người thương xót. Phía sau tiếng kêu của anh, là niềm cậy trông vào một quyền lực siêu phàm có thể chữa được anh. Chúa muốn anh đối thoại với Người. Chúa muốn thử nghiệm một lòng tin phôi phai và hướng dẫn lòng tin ấy đi quá hy vọng một sự chữa lành tức thì, để tiến đến mọi sự liên hệ trực tiếp với Chúa. Kẻ mù, với tư thế một con người, trả lời Đức Giêsu như thể trả lời Đấng Cứu Thế. Chúa không chữa khỏi một tật bệnh, Chúa chữa khỏi một kẻ tật nguyền trong tâm hồn kẻ ấy, ơn thiên phú của đức tin đã vào sâu và được nghênh đón. Hãy đi lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Người ấy có thể trở nên một trong những môn đệ trung kiên đã gắn bó theo Chúa không? Có lẽ là thế. Một điều đáng nhớ: Chúa Giêsu không chữa lành tội của tôi, Chúa chữa lành tôi, một kẻ tội lỗi, bởi vì tôi đã hiến dâng Chúa niềm tin của tôi.
9. Mù dắt mù.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách qua đường chặn ông lại và hỏi:
- Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù mà!
- Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.
Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh la lớn:
- Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?
- Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!
Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền phản ứng quyết liệt:
- Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng hay sao?
- Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…
Thưa anh chị em,
Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.
Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?...
Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi theo Ngài.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.
Thưa anh chị em,
Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối. Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.
“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.
Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…
Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.
Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.
10. Nhìn cái tốt – Gm. Arthur Tonne.
Nàng là một phụ nữ không bao giờ có thể thấy được một điều gì tốt đẹp nơi người khác. Bất kể ai làm điều gì tốt, nàng cũng tìm ra được một điều sai. Một người nào đó làm một việc tốt, nàng vẫn có thể tìm ra một nguyên nhân xấu xa. Nàng ưa câu nói: “Nó phải có ẩn ý… Nó rút ra được gì trong đó”. Nàng bắt lỗi mọi người. Nhiều người chúng ta ít nhiều có tật xấu như nàng. Nàng bất thường, để lấy lại niềm tin, nàng ý thức rằng cái tật “bới bèo ra bọ” làm nàng sợ hãi. Nàng đến bác sĩ tâm thần, nhưng ông chẳng giúp nàng được bao nhiêu. Ngày kia, được nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thực sự thức tỉnh nàng: Nàng bị mù trước những cái tốt đẹp của người khác. Nàng can đảm nhìn sự thật và thay đổi nhãn quan với người khác.
Chúa Giêsu chữa người đui mù thể xác, để chứng tỏ rằng Người cũng có thể chữa bệnh đui mù thiêng liêng. Quả thật. Bệnh đui mù tinh thần và thiêng liêng còn tai hại hơn đui mù thể xác. Loại đui mù thiêng liêng này lây nhiễm người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi: “Tôi có mù trước cái tốt của kẻ khác không?”. Nếu có, chúng ta kêu cầu Chúa Kitô chữa chúng ta như người đui mù trong bài Tin Mừng.
Nơi tốt nhất để bắt đầu sửa chữa là ngay trong gia đình. Vợ bạn quên đính nút áo sơ mi, thay vì nghĩ đến sự thiếu sót này, trước hết bạn hãy nghĩ đến những việc tốt nàng đã làm trong ngày đó cho bạn và cho gia đình: Nấu ăn, giặt giũ, lau chùi, săn sóc con cái… Chồng bạn quên đổ thùng rác, không sao đâu, bạn hãy nghĩ để chàng làm việc cả ngày cho bạn và các con.
Thanh niên nam, nữ: bạn cần nghĩ đến những việc tốt cha mẹ đã làm cho bạn, hơn là những lần các ngài không cho phép bạn hoặc muốn bạn ở nhà.
Tập nghĩ đến cái tốt người khác làm, thay vì nghĩ đến lầm lỗi của họ, như trong trường giữa thầy và trò, như cha sở và giáo dân, như các thành phần của hiệp hội, công nhân trong công đoàn. Ông chủ của bạn không thể hoàn toàn xấu, người công nhân không thể hoàn toàn vô dụng. Mở mắt ra để thấy cái tốt của người khác, nghĩ tới nó và nói về nó.
Nhìn cái tốt nơi người khác là một cách để yêu người. Tình yêu không tiêu cực. Tôi không thể yêu một ai bằng cách nói: “Tôi sẽ không bao giờ nghĩ tàn nhẫn về bạn, hoặc nói tàn nhẫn cho bạn”. Đó không phải là tình yêu. Tình yêu phải tích cực: “Tôi sẽ bỏ cách thức của tôi, tôi sẽ cố gắng đặc biệt để nghĩ, nói và hành động tử tế với bạn”. Hoa trái lớn của việc tìm cái hay cái tốt trong người khác là cảm giác hài lòng và hân hoan. Và chúng ta còn giữ được giới răn của Chúa Kitô bảo ta đừng xét đoán.
Để nhìn thấy cái tốt cái hay của người khác, chúng ta cần sức mạnh thiêng liêng, một thứ phép lạ. Chúa Kitô sẽ làm phép lạ cho bạn nếu bạn xin Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.
11. Đức tin của con đã cứu con – Noel Quesson.
Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Một người lính trẻ hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh la lên: Mẹ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn về được với mẹ”. Người lính đáp: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.
Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh được nghe nhiều về Chúa, và lòng trí anh đã ghi nhớ đuợc một số điều căn bản. Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần, anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua Đavid, xin thương con”. Do thiện chí và do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi nghe người ta bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy. Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhảy lên và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.
Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35), phải chọn địa vị rốt hèn (9,35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10,38-44)… Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm trọng.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”.
Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra Ngài đang hiện diện với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa trên đường phục vụ hôm nay.
12. Mù loà.
Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu cầu:
- Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.
Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài. Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp cho cuộc đời chúng ta hay không? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không?
Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục. Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông lỏng.
Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.
Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.
Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.
Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:
- Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung cửa.
Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra, hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên Chúa.
Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ thù đột nhập.
Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:
- Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.
Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong việc cầu xin Chúa.
Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.
Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám đông đó.
Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.
Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác, những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát, khốn khổ.
Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ chính Chúa.
Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi, anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng ta.
Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.
Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện. Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.
Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay chưa được? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách: hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay, chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là một người mù lòa về phương diện thiêng liêng?
Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ. Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa. Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.
Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.
Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu, nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những người mù lòa.
Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và bất hạnh.
Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã xác quyết:
- Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và Ngài đã kết luận:
- Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.
Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội. Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì?
Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
Chơi dao có ngày đứt tay.
Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.
Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta. Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.
Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.
Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Batimê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giêricô về Giêrusalem.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.
Anh mù Batimê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.
Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đavít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.
Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.
Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên sai, con vua Đavít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.
Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?
Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm. Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.
Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp. Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra trong các bệnh viện của chúng ta.
Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt đến mức nào?
Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như: “Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi” hoặc “Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…
Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt? Phải chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong?
Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi ngờ và lưỡng lự.
Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.
Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên. Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.
Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu. Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy được với con mắt của đức tin.
Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã được thấy.
Báctimê đã sống trong một tình trạng tồi tệ. Bệnh mù lòa là một nỗi đau buồn kinh khủng. Anh ta đã ngồi ở vệ đường, bên lề cuộc sống. Anh bắt buộc phải ăn xin và sống nhờ vào lòng bác ái của những người khác. Tình trạng của anh thật vô vọng.
Và tuy vậy, dường như anh có một thứ giàu sang. Anh có đức tin trong Đức Giêsu. Có thể đó chỉ là đức tin của người tuyệt vọng, nhưng vấn đề quan trọng vẫn là đức tin. Khi anh nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua, không còn nghĩ đến lòng tự trọng và sự e thẹn, anh bắt đầu kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin đủ lòng thương tôi?” Anh không cần biết liệu Đức Giêsu có khước từ lời cầu của anh hoặc người ta đang quát nạt bắt anh phải im đi. Anh tiếp tục kêu to.
Khi anh nghe Đức Giêsu cho gọi anh, anh đứng phắt dậy, vứt bỏ chiếc áo choàng và đến gần Đức Giêsu. Cái áo choàng này là vật duy nhất có giá trị mà anh có. Đối với anh, nó có ý nghĩa bằng cả thế giới. Nó không chỉ đem lại cho anh sự ấm áp, mà còn che đậy sự cùng khổ thảm hại của anh và do đó nó cho anh một mức độ phẩm giá và khả kính. Tuy nhiên, anh đã vất bỏ nó đi và đi đến với Đức Giêsu như anh đã làm – trong tất cả sự tối tăm, nghèo khổ và thảm hại của anh và Đức Giêsu đã đón tiếp anh, trả lại cho anh thị giác.
Khi chúng ta đến bác sĩ để khám bệnh, chúng ta được yêu cầu cởi bớt áo quần. Lột bỏ là trở nên dễ bị tổn thương. Nhưng làm thế nào để bác sĩ định bệnh và chữa trị nếu chúng ta không để bác sĩ trước tiên trông thấy bệnh ấy?
Chúng ta cũng mù lòa theo những cách nào đó. Chúng ta cũng nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đến gần Người. Người muốn làm điều tốt cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta thấy việc vất bỏ áo choàng để đến cùng Người sao khó quá. Lòng tự trọng làm chúng ta cố mặc lấy một cái dáng vẻ bên ngoài nào đó cho người ta thấy.
Chúng ta hãy tin rằng, chúng ta phải trở nên hoàn hảo. Nếu không, Người không yêu thương chúng ta nữa. Thừa nhận tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta sẽ khiến Người loại bỏ chúng ta, nhưng nếu chúng ta hoàn hảo, nếu chúng ta tốt, thì chúng ta chẳng cần đến Người.
Chúng ta phải thực hiện một hành động đức tin triệt để và tín thác vào Đức Giêsu. Chúng ta phải từ bỏ sự giả vờ, che đậy, ẩn mình sau những bức màn và mặt nạ, và phải bằng lòng xuất hiện trước mắt Người như chúng ta thật sự là thế. Chúng ta không có gì phải sợ ngoài lòng nhân hậu và sự chữa lành của Người. Một bệnh nhân không cảm thấy được chấp nhận nếu điều xấu nhất nơi người ấy không được chấp nhận. Cũng thế, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận nếu chúng ta không để Người nhìn thấy khía cạnh xấu nhất của chúng ta.
Nhiều người ngồi bên lề cuộc sống để ăn xin, không phải tiền bạc, nhưng lòng yêu thương, sự quan tâm, cảm giác họ quan trọng và đời sống này có một ý nghĩa. Nhiều người trong họ rất ngại ngùng xin được giúp đỡ. Họ sợ sự lãnh đạm thờ ơ của những người khác bắt họ phải im đi.
Bactimê là một kiểu mẫu cho những người khác. Nhiều người mù lòa và không có phương hướng nhưng họ đã tìm ra mục tiêu. Nghị lực và phương hướng cho đời mình và đó là kết quả của việc họ đi theo Đức Giêsu sẽ dẫn đến một đời sống hạnh phúc và viên mãn, một đời sống được chia sẻ với những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy anh chị em túng thiếu của chúng con; xin cho chúng con nghe thấy tiếng khóc thầm của họ để chúng con không thể đi ngang qua. Vì chúng con cũng là những người hành khất nhưng Chúa làm cho giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa nhưng Chúa mở mắt chúng con.
Tên tôi là Báctimê. Hãy để tôi cố gắng thuật lại bị mù như tôi ra sao. Bị mù tức là bị phân ly với những người khác. Đó là sống trong thế giới của riêng mình. Thỉnh thoảng sự cô độc quấn chặt lấy tôi như sương mù lạnh lẽo. Tôi bị phân ly với mọi vật làm cho đời sống đáng giá, người ta cho rằng những sự vật tỏa sáng là việc đương nhiên. Tôi bắt buộc phải đi ăn xin, điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn lệ thuộc vào lòng bác ái của những người khác. Tôi ngồi bên vệ đường, bên lề cuộc sống. Tương lai tôi là một con đường dài, nhưng là một con đường không có đích đến. Cuộc đời không bao giờ có thể khác được. Tôi sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Luôn luôn ở bên lề, luôn luôn cô độc và phân ly. Tôi khao khát một điều là thấy được. Và khát vọng này cứ đeo đẳng tôi chỉ cần nó buông tôi ra thì có lẽ tôi sẽ có được đôi chút bình an trong lòng mình. Một số người cho tôi một đồng bạc khi họ đi ngang qua. Nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện với tôi. Không một ai bước vào thế giới cô độc của tôi dù chỉ trong một phút. Sự thờ ơ của người khác là điều làm tôi tổn thương nhiều nhất. Thật khủng khiếp khi có người đối xử với bạn như thể bạn là một khúc gỗ không có chút cảm xúc nào. Người ta nhanh chân bước vội khi đến gần tôi và đi chậm lại khi họ đã đi qua rồi. Tôi có thể nói như thế vì tôi nghe thấy tiếng bước chân của họ. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó. Nó làm cho tôi có cảm tưởng rằng một cách nào đó, tôi mắc bệnh truyền nhiễm. Thầy tư tế nói với tôi rằng sự mù lòa của tôi, do tội lỗi gây ra. Điều này có nghĩa là ngay cả Thiên Chúa cũng không có thời gian dành cho tôi và Người cũng đã đẩy ra ngoài.
Sự thể là như thế cho đến một ngày kia tôi nghe thấy âm thanh của một đám đông. Tôi dò hỏi và người ta nói với tôi rằng Đức Giêsu đi ngang qua đây. Thình lình niềm hy vọng lóe sáng trong tôi, và tôi bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!”. Người ta bắt tôi phải im lặng và nói rằng tôi chỉ gây ra trở ngại. Nhưng tôi từ chối giữ im lặng. Tôi kêu lên to hơn nữa. Rồi người ta nói với tôi rằng Người đã nghe thấy tôi và đã cho gọi tôi. Vất bỏ cái áo choàng, tôi dò dẫm đường đến gặp Người. Người hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Tôi đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” Người không hỏi thêm gì nữa, Người chỉ nói: “Anh hãy đi lòng tin của anh đã cứu anh”.
Làm sao tôi có thể đi và quên hết mọi sự về Người? Tôi đi theo Người trên con đường Người đi. Tôi đã trở thành một môn đệ của Người. Niềm vui thấy được thì to lớn biết bao. Tôi muốn đến và sờ vào mọi người. Tôi xem họ tất cả đều là bạn bè của tôi. Khi tôi gặp Đức Giêsu, tôi cảm thấy tình yêu của Người. Người không chỉ đưa tôi từ bên lề vào bên trong cuộc sống mà còn cho tôi một chỗ danh dự ở bàn tiệc sự sống.
Đức Giêsu nói rằng sứ vụ của Người là “mở mắt cho người mù”. Trong sứ vụ ấy, vấn đề không phải là đem lại cái nhìn thể chất cho người ta nhưng là đem lại cho họ một tầm nhìn, một cách nhìn khác về đời sống. Vấn đề không phải là mở con mắt thể chất của người ta nhưng là mở ra trí óc, sự tưởng tượng và đặc biệt là tâm hồn của họ. Cuộc du hành thật sự để khám phá chủ yếu không phải là tìm kiếm những vùng đất mới nhưng là để có những tầm nhìn mới.
Đức Giêsu đã mở mắt cho ông Dakêu trước nguy cơ của cải, và khiến ông này chia tài sản cho người nghèo. Người đã mở mắt cho tên gian phi bị đóng đinh với Người để anh thấy lòng thương xót của Thiên Chúa và đón anh vào thiên đàng.
Chúng ta không nhất thiết phải mù về thể chất để cảm thấy mình ở trong bóng tối. Có những lúc bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể cảm thấy mình cô độc và lẻ loi. Chúng ta thấy mình ở bên lề mọi việc. Chúng ta không còn có ích và được chú ý đến. Người ta quên chúng ta. Không có tình yêu thì thế giới rất tối tăm. Và người ta muốn chúng ta phải im đi. Và chính chúng ta cũng hổ thẹn không dám kêu to.
Và những lúc đó, chúng ta phải có can đảm và sự khiêm nhường để kêu to cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Đức Giêsu là Đấng đưa chúng ta từ bên lề vào bên trong. Người nói với chúng ta rằng chúng ta quý giá đối với Chúa Cha. Người cho chúng ta một chỗ ngồi ở bàn tiệc nước trời.
Người muốn chúng ta làm cho người khác điều mà Người đã làm cho Bác timê. Chúng ta không được thờ ơ với một người cô độc và để họ ở bên lề. Nhưng với lòng yêu thương, sự chăm sóc, thời gian, chúng ta phải đem một ánh sáng nhỏ vào trong một thế giới của bóng đêm.
Thái độ của người theo Chúa trước cảnh bất công, cùng khốn của đồng loại
Câu hỏi gợi ý:
1. Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không?
2. Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì?
3. Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?
Suy tư gợi ý:
1. Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt
Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu - người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ - sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu - những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài - đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.
Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».
2. Người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.
Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.
3. Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói
Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?
Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).
Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?
4. Thái độ của người Pharisêu
Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.
Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.
20. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ (10,46-52)
Trình thuật vắn gọn gồm bảy câu này giàu hương vị và súc tích đặc biệt. Maccô đã phác họa nơi đây những nét sinh động to tát bộc lộ chiều sâu tư tưởng của ông.
Quang cảnh xảy ra đã được xác định rõ nơi chốn, khi vừa qua khỏi (nơi Chúa Giêsu đang đi 10,1) thì Giêricô sẽ là địa danh dẫn người ta vào Israel (c.46a). Đối với Chúa Giêsu đây là bước quy định nhất trong tiến trình hướng về Giêrusalem (11,1). Hãy ghi nhận rõ: đây là lần đầu tiên tác giả Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu đồng hành về Giêrusalem với “một đám đông” chứ không phải chỉ riêng các môn đệ Ngài. Và này đây trên bước hành trình của mình, đám đông sẽ có được một cuộc gặp gỡ “đổi đời”. Ở đây chúng ta gặp một nhân vật “đặc biệt” đang ngồi ở lề đường: anh ta là một trong vô số người mù Palestin thời đó phải xin ăn mà sống (c. 46c). Sự cố liên quan tới anh ta đã gây xúc động mạnh cho Maccô đến nỗi ông là người duy nhất trong các giả Phúc Âm đã ghi lại tên anh mù bằng tiếng Aram được Maccô lẹ làng dịch ra cho độc giả Hy Lạp hiểu, tên ấy là có nghĩa là con của Timê. Anh ta hoàn toàn bị gạt ra rìa cuộc sống tức là đang khi thiên hạ đi thì anh ta ngồi mà lại ngồi ‘bên vệ đường”!
Tuy nhiên, dù mù lòa cô đơn ngồi một chỗ, anh ta vẫn là một người hiếu động, với sự bộc phát đầy kinh ngạc, anh ta kêu lên Chúa Giêsu khi Ngài đi qua đó (c. 47). Tiếng kêu của anh mù biểu lộ nỗi khổ to lớn nhưng đặc biệt cũng biểu lộ niềmtin cậy khôn lường. Quả là nghịch lý khi anh mù này lại “thấy” được chính xác Đức Giêsu Nadaret là ai. Anh ta gọi Ngài là “Con vua Đavit”. Theo truyền thống Kinh Thánh đây chính là tên gọi Đấng Mêsia. Đấng được dân riêng Chúa từ lâu mong đợi (x. Lời hứa Chúa ngỏ với Đavit: 2Sm 7,1-17). Như thế Bartimê đã thực hiện một hành vi đức tin phi thường. Trái lại, đám đông đang nối nhau theo Chúa Giêsu thì muốn khước từ anh chàng nghèo khổ, bị khai trừ này. Đây là đặc tính của con người đương thời: họ chỉ muốn anh chàng quấy rầy này câm miệng đi. Đối với họ, một kẻ ăn xin cản bước Chúa Giêsu thì thật là không thích đáng tí nào. Không thấy nói đến thái độ của các môn đệ; chẳng hiểu các ông có tham gia tẩy chay anh mù không? Có thể lắm chứ. Các ông chẳng từng quở mắng đám trẻ con (một loài người bị khai trừ) muốn đến gần Chúa Giêsu đó sao? (10,13-16). Mặc kệ đám người chung quanh Chúa Giêsu tỏ ra hết sức thù nghịch, Bartimê vẫn không chịu thua cuộc. Người ta càng tìm cách chận không cho anh là thì “anh càng la to hơn”: “Lạy con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (c. 48b). Lời van xin dai dẳng này đã đạt được mục đích: Chúa Giêsu dừng lại và nói: “Hãy gọi anh ta tới” (c. 49a). Một lần nữa Đấng Mêsia biểu lộ cho thấy Ngài muốn “dan díu” với những kẻ mà các bạn hữu Ngài khăng khăng muốn khai trừ (x.10,14). Và Ngài đã yêu cầu người ta gọi kẻ bị khai trừ đến gặp Ngài. Lúc này đây, đám đông (và không chừng cả các môn đệ (?)) liền “đổi giọng” và mời anh mù đến gần Chúa Giêsu (c. 49b). Những từ này còn hàm chứa lời mời gọi anh mù nọ rời bỏ tình trạng “chết chóc” của mình bởi vì “Hãy đứng lên” cũng hàm nghĩa “Hãy sống dậy”, theo ngôn ngữ Hy Lạp được dùng trong Phúc Âm, tiếng kêu gọi này mang lại hiệu quả ngay. Lập tức “anh mù liền vất áo choàng lại, nhảy chồm lên mà đến gần Chúa Giêsu” (c. 50). Các chi tiết này thật kỳ diệu. Giống như thể Bartimê đã hết mù rồi vậy! Vất áo choàng tức là vất bỏ đi “tình trạng” bị khai trừ của mình. Thực thế, trong Thánh Kinh, y phục tượng trưng cho nhân cách người mang nó. Áo khoác là của cải duy nhất của “người nghèo” (x. Xh 22,25-26). Khi vất áo đi, Bartimê đã thực hiện điều mà Chúa Giêsu không thể nhận được từ người đàn ông giàu có nọ, tức là bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Và bằng cách nào đây? “Anh ta nhảy chồm lên”. Nhảy lên trong lúc mắt vẫn còn mù thì đúng là cái nhảy của đức tin. Anh ta chạy về phía Chúa Giêsu: điều này nói lên được rất nhiều về đức tin của anh. Với sự lao tới không gì cầm lại được, kẻ từng bị sống ngoài rìa xã hội vượt qua cái hố phân cách anh ta với tất cả mọi người.
Gặp được anh mù rồi, Chúa Giêsu liền nói: “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (c. 51a). Câu hỏi xem ra thừa bởi vì nhu cầu của anh ta đã quá rõ ràng. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn kính trọng tự do của mọi kẻ đến gặp Ngài. Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (c. 51b). những tiếng anh ta dùng là trang trọng. Khi ngỏ lời với Thầy mình, các môn đệ người Do Thái thường chỉ gọi đơn sơ “Thưa Thầy” (Rabbi). Còn ở đây tiếng Rabbouni có nghĩa là “Thầy của tôi” được anh mù ngỏ với Chúa Giêsu với đầy sự kính trọng và thân ái hơn. Mặc dù chỉ yêu cầu “xin cho tôi được thấy” nhưng xem ra có lẽ anh ta muốn diễn tả một nhu cầu sâu xa hơn. Trình thuật lại gợi cho ta thấy điều này. Lời nói của Chúa Giêsu chứa đựng một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với cử tọa chung quanh (c. 52a). Câu nói “anh hãy đi” hàm ý một sự sai phái. Chúa Giêsu giải thoát anh ta khỏi những gì làm tê liệt anh ta. Hơn nửa, tất cả những gì lay động Baritmê từ những tiếng van nài lải nhải cho đến việc anh phóng chạy tới Ngài đang khi vẫn còn mù, đều được Chúa Giêsu đánh giá là thuộc về “đức tin”, và thành ngữ “đã cứu chữa anh” có nghĩa là ân sủng Chúa Giêsu ban cho người tín hữu vượt quá sự chữa lành về mặt thể lý, vì đó là ơn cứu độ toàn bộ con người. Những lời tương tự như khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,34) đã mặc khải rõ ý nghĩa sâu xa của các phép lạ Ngài thực hiện. Đoạn cuối của trình thuật này rất lạ thường. Theo tính cách bất ngờ thường thấy Maccô sử dụng. (trạng từ “tức khắc” được lặp đi lặp lại thường xuyên: 1,12.20; 2,12; 5,30v.v...). Ở đây anh mù sau khi được khỏi liền bước đi theo Chúa Giêsu. Câu nói anh “theo Ngài lên đường” là công thức rất thường dùng để diễn tả thái độ “người môn đệ” (1,18; 2,14).
Chúng ta thấy ở đây nghệ thuật kể chuyện của Maccô đã đạt đến độ hoàn hảo (c. 52b). Quả là tương phản biết bao giữa tình trạng lúc đầu của Baritmê (ngồi bên lề đường, mù lòa, xin ăn) và tình trạng sau đó của anh ta (đứng, đi trên đường, sáng mắt, loan báo Tin Mừng...) không nghi ngờ gì nữa, khi đặt trình thuật trên vào thời điểm Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, lôi kéo đám môn đệ và quần chúng đạt đến “nguồn ánh sáng” lớn lao hơn về thân thế và sứ mệnh của Ngài, Maccô đã muốn minh họa cho những gì làm nên “người môn đệ đích thực tức là phải để cho Chúa Giêsu dẫn đến sự “Thiên Khải của đức tin”. Trước đó việc chữa lành người mù ở Betsaiđa (8,22-26) đã giúp các môn đệ Chúa Giêsu khám phá ra Ngài là Đấng Mêsia (8,27-30). Giờ đây, Chúa Giêsu lại mời gọi các môn đệ và tất cả những kẻ muốn theo Ngài hãy mở con mắt của lòng mình ra để đón nhận, trong đức tin, cái nhìn về một Đấng Mêsia chịu đau khổ và vinh thắng.
Hẳn Maccô chỉ có thể định vị trình thuật này cách hay nhất vào thời điểm Chúa Giêsu sắp đi vào thành Giêrusalem. Liệu người ta có thể nhận biết Chúa thân thế và hành động của Ngài không? Quả thật khi đến trần gian cứu độ loài người, Chúa Giêsu nhắm đến hai mục đích: vừa phục hồi họ vào trong xã hội đương thời của họ, vừa tháp nhập họ vào trong cộng đồng tình yêu do Ngài thiết lập nên.
CÁC PHÉP LẠ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Trong Phúc Âm Maccô, các phép lạ của Chúa Giêsu lên tới con số mười bảy; điều này cho thấy chúng đóng góp một vai trò quan trọng bởi vì tác phẩm này tương đối ngắn (chỉ mười sáu chương) đồng thời các giáo huấn của Chúa Giêsu ở đây lại hiếm khi được giải thích (nhất là ở giai đoạn đầu, xem 1,14-8.30).
Người ta có thể xếp “các hành vi quyền phép này” (theo kiểu nói của Maccô) thành những “loại” khác nhau phù hợp với não trạng hiện đại của chúng ta hơn là tư tưởng phương Đông và tư tưởng thời xưa.
- Có những hành vi được xem là các cuộc chữa bệnh thuần túy: nhạc mẫu Phêrô (1,29-31); một người phong hủi (1,40-45); người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,25-34); một người câm điếc (7,31-37); hai người mù (ở Betsaiđa; 8,22-26; ở Giêricô: 10,46-52); hai người bại liệt (ở Caphanaum: 2,1-12; trong một hội đồng: 3,1-6).
- Một “cuộc hồi sinh”: con gái ông Giairô (5,21-24 và 35-43).
- Những “hành vi quyền phép” trên thiên nhiên: dẹp yên bão tố (4,35-41); đi trên sóng nước (6,45-51); hai lần hóa bánh (6,30-44; 8,1-10).
Việc tường thuật dồi dào các sự kiện “lạ lùng” thường khiến các độc giả thời nay lạc lối. Đối với đa số người thời nay, các phép lạ trở thành một trở ngại cho đức tin hơn là lời mời gọi người ta đến với đức tin. Tuy nhiên chắc chắn hồi đó Chúa Giêsu là một nhà trị bệnh đồng thời cũng là một nhà trừ quỷ. Điều này chẳng có gì khác thường trong thế giới Do Thái và dân ngoại thời ấy. Văn chương vùng Đông phương cổ xưa và trong thế giới Hy Lạp thời Chúa Giêsu còn lưu lại trình thuật phép lạ do những người có đặc sủng hoặc các nhà ma thuật thực hiện.
Tuy nhiên các phép lạ của Chúa Giêsu khác hẳn với các phép lạ của các nhà trị bệnh đương thời. Các phép lạ của Chúa Giêsu liên kết chặt chẽ với Tin Mừng Ngài rao giảng. Chúng thực sự là “những dấu chỉ” cho thấy Đấng Mêsia đang hiện diện (x. Mt 11,2-6), Nước Thiên Chúa đang đến. Sứ điệp của Chúa Giêsu đã mang lại tất cả ý nghĩa cho việc Ngài trị bệnh và trừ quỷ. Ngoài việc làm tiêu tan đi cơn đau thể lý và tâm lý, các phép lạ còn là dấu chỉ sự “giải thoát” về mặt tôn giáo và xã hội nữa. Trước hết Chúa Giêsu đến phục hồi cho bệnh nhân sự thông hiệp với Thiên Chúa. Như thế Ngài tái tháp nhập bệnh nhân vào cộng đồng đức tin cùng với những người khỏe mạnh khác. Đồng thời Ngài phục hồi cho “những kẻ bị khai trừ” này bằng cách giúp họ tái nhập vào xã hội mà họ đang sống. Hai ví dụ sống động của việc “giải phóng kép” này được tìm thấy nơi các phép lạ “chữa người phong hủi” (1,40-45) và “người bị bất toại được tha thứ và chữa lành” (2,1-12).
Ngoài ra, phải đọc các phép lạ của Chúa Giêsu nơi Maccô, trong khuôn khổ liên tục của Phúc Âm này. Ở mỗi giai đoạn mặc khải về Đấng Mêsia, các phép lạ đều củng cố thêm cho sự khám phá thân thế và sứ mệnh đích thực của Ngài.
- Trong giai đoạn đầu (1,14-3,12) Chúa Giêsu muốn cho mọi người hiểu rằng Ngài đến khánh thành kỷ nguyên cứu độ, các phép lạ chữa lành nhạc mẫu Phêrô (1,29-31), chữa lành một người phong hủi (1,40-45), chữa lành một kẻ bại liệt (2,1-12), chữa lành người có cánh tay bị liệt (3,1-6) chứng nhận Ngài thực sự là một vị lương y của thể xác và tâm hồn.
- Trong giai đoạn thứ hai (3,13-6,6) Chúa Giêsu lôi cuốn các môn đệ vào công việc mang Phúc Âm “đi xa” đến vùng các dân ngoại. Maccô đã gom lại ở đây bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu để trấn an Giáo Hội non trẻ rằng Đấng Chúa Tể Phục Sinh của họ vẫn còn đang hiện diện ở khắp mọi nơi và Ngài luôn nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Các phép lạ sau đây đều mang ý nghĩa này: truyền bão tố yên lặng (4,35-41), chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa (5,1-20), hồi sinh con gái ông Giairô và chữa lành người phụ nữ mắc bệnh băng huyết (5,21-43). Khi đọc những bằng chứng này, các Kitô hữu, mạnh dạn đem Tin Mừng đến giữa lòng dân ngoại.
- Trong giai đoạn thứ ba (6,7-8,26) Chúa Giêsu mặc khải Ngài là một Môsê mới. Ngài có khả năng quy tụ và nuôi dưỡng được mới của Thiên Chúa bằng lời nói và bằng sự hiến dâng chính mình. Đây là ý nghĩa lần hóa bánh đầu tiên (6,30-44). Tuy nhiên Ngài không dừng lại ở đó: Ngài còn đến để mở rộng bàn tiệc Nước Chúa cho những kẻ xa lạ, những kẻ không thuộc dân Do Thái vẫn thường bị dân Do Thái khai trừ. Đây là ý nghĩa việc trừ quỷ cho đứa con gái người phụ nữ Syrô-Phênisi (7,24-30) và lần hóa bánh thứ hai (8,1-9). Sự kiện các môn đệ cảm thấy khó mà nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia mang tính cách hoàn vũ đã được minh họa qua hai phép lạ có tầm mức tượng trưng cao độ: phép lạ chữa người câm điếc (7,31-37) và chữa người mù ở Betsaiđa (8,22-26). Những kẻ muốn theo Chúa Giêsu phải thoát ra khỏi sự điếc lác mù lòa cản trở không cho họ nhận ra thân thế sâu nhiệm và sứ mệnh của Ngài.
- Giai đoạn thứ tư của sứ mệnh Chúa Giêsu (8,27-10,52) là giai đoạn đào tạo gấp rút các môn đệ tham dự vào lời loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới. Các môn đệ không được sợ hãi viễn cảnh mới về cái chết của Thầy mình. Một cách cố ý, Maccô đã trình bày việc chữa lành đứa bé bị động kinh (9,14-29). Ở đây Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Chúa Tể nắm quyền trên các sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Ngài chứng tỏ Ngài có khả năng “Phục Sinh” Người đã bị phó cho thần chết. Bạn hữu Chúa Giêsu phải mở mắt ra theo gương anh mù thành Giêricô (10,46-52). Họ có thể bước theo Chúa Giêsu trong đức tin sáng chói, cùng đồng hành với Đấng vướt qua cuộc khổ nạn, chiến thắng sự chết bằng cuộc phục sinh của Ngài.
- Giai đoạn thứ năm của Chúa Giêsu (11,1-13,37) hoàn toàn tập trung vào cuộc nhập thành Giêrusalem và việc Ngài chính thức giảng dạy trong đền thờ. Giai đoạn này không thấy Chúa Giêsu làm phép lạ. Phải đọc trình thuật “cây vả bị khô héo” (11,12-14 và 20-25) như là một cử chỉ tượng trưng. Dụ ngôn này (được lịch sử hóa) muốn chứng tỏ rằng luật lệ hay đền thờ Do Thái cũng không thể làm thỏa mãn cơn đói Thiên Chúa (11,12). Chỉ mỗi mình Chúa Giêsu mang theo nơi Ngài lương thực cứu độ.
- Giai đoạn thứ sáu và cũng là giai đoạn chót (14,1-16,8) là trình thuật liên tục về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Suốt thời gian các biến cố này, Chúa Giêsu không hề thực hiện hiện một dấu chỉ quyền phép thần linh nào cả. Mãi đến lúc cuối cùng, Ngài vẫn từ khước cơn cám dỗ xui khiến Ngài thực hiện “phép lạ” cứu Ngài thoát chết tức là xuống khỏi thập giá (15,29-32). Làm phép lạ này tức là phủ nhận chính nhân tính của Ngài.
Người ta thấy rõ: các phép lạ trong Phúc Âm Maccô không bao giờ là những “chứng cứ” về thiên tính của Chúa Giêsu mà chỉ những dấu chỉ giúp chúng ta tin. Chúng được tác giả Phúc Âm và cộng đồng của ông đọc lại dưới ánh sáng phục sinh và Kim Thánh. Chúng chỉ là những lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu, Đấng cứu độ ta khỏi những sự dữ to lớn, đặc biệt là sự chết. Các dấu chỉ này luôn luôn hiện thực để khích lệ hoạt động thừa sai và bí tích của Giáo Hội (x. 16, 15-20). Người ta hiểu rằng các dấu chỉ ấy vẫn mãi mãi là một “câu hỏi” đối với những kẻ không tin...
21. Chú giải của Noel Quesson.
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất" thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho "công việc tiến vào miền đất hứa" ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là "thành phố mặt trăng", chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm "dấu lạ" cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn "mù tối" trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải "mất mạng sống mình" (8,35), phải trở nên "người cuối chót" (9,35), phải tự "móc mắt, chặt tay, chặt chân" để khỏi phạm tội (9,47), phải "trung thành trong hôn phối" đến độ anh hùng (10,9), phải "uống chén đắng và nhận phép rửa", phải trở nên "đầy tớ của mọi người" (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để "theo Chúa".
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là "hình trạng" của sự "khó nghèo", của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người "hành khất mù ngồi dưới đất" này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ "tưởng mình thấy rõ" (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt. Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét. Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu. “Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua", Người "đang đến". Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!"
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. "Xin thương xót tôi". Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là "Kyrie Eleison". Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc... phương thế tự thánh hóa mình nhờ "lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót". Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là "Ièsou, eleison, Ièsou, eleison"
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể "thở" với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít" ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai" không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông "Vua" thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người "sẽ lập lại vương quyền tại Israel". Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên "nắm quyền". Người là "Vua", nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!"
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các "môn đệ" bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về "vai trò của Giáo hội": thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. "Đứng dậy" (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là "thức dậy” hay "sống lại" (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc "áo ngoài" là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?"
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng" để tự mình "tuyên xưng Đức tin".
Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được"
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là "việc khai sáng". Đó là bí tích mở mắt. Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: "Lúc bấy giờ mắt họ mở ra". Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ "khuôn mặt đầu tiên" mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
bài liên quan mới nhất
- Giáng Sinh nơi tuyến đầu
-
Vui Giáng Sinh với bệnh nhân covid -
Ý nghĩa Thánh danh Giêsu - Maria - Giuse -
Mong mang chút hơi ấm -
Những cọng rơm khô đặt vào máng cỏ -
Giáng Sinh nơi giường bệnh -
Quà tặng Giáng Sinh đặc biệt trong mùa Covid -
Mùa Covid: Giáng Sinh đặc biệt khi ta làm những điều đặc biệt -
Cùng Chúa con vượt qua nỗi sợ -
Bài học từ cuộc đối thoại
bài liên quan đọc nhiều
- Kinh Rước lễ thiêng liêng
-
Đức Giáo hoàng chỉ cách phân biệt được Chúa hay Satan đang nói -
Cầu xin cùng Thánh nữ Corona trong cơn đại dịch corona -
Thánh Rôcô: Bổn mạng của các nạn nhân dịch bệnh -
Cầu nguyện theo Kinh thánh để chống lại dịch bệnh -
Tại sao đình chỉ việc cử hành Thánh Lễ giữa cơn đại dịch ? -
14 Chặng Đàng Thánh Giá trong đại dịch virus Covid-19 -
Ý nghĩa của thứ Tư Lễ Tro -
Chính xác, Chúa Giêsu chết vào ngày giờ nào? -
Lời cầu nguyện giúp vượt qua chán nản và trầm cảm