Thứ Tư tuần 5 mùa Chay (Ga 8,31-42)

Thứ Tư tuần 5 mùa Chay (Ga 8,31-42)

Thứ Tư tuần 5 mùa Chay (Ga 8,31-42)

“Thật, tôi bảo thật các ông:
hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội”. (Ga 8,34)

BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20. 91-92. 95

“Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.

Trích sách Tiên tri Đaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không ? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao ?" Các ông trả lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Đây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ".  

Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Đáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

Xướng:

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Đáp.

2)Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Đáp.

3)Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Đáp.

4)Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Đáp.

5)Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Đáp.

 

Tin mừng: Ga 8,31-42

Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.”

Họ đáp: “Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do ?”

Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi.

Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham, nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông.

Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các ông nói.” Họ đáp: “Cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham.”

Đức Giê-su nói: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm.

Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm.” Họ mới nói: “Chúng tôi đâu phải là con hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!”

Đức Giê-su bảo họ: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi.

 

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa đến để mạc khải sự thật. Ai tin và sống theo lời sự thật ấy, sẽ được giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi và được tự do trong cuộc sống làm con cái Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi con đứng trước một món nợ, trước một cám dỗ, con thường bị ma lực của đồng tiền, của danh vọng và lạc thú lôi cuốn. Con không còn đủ sáng suốt và tự do để chọn lựa. Khi thỏa mãn những đam mê của con, con tưởng mình như được tự do. Nhưng lạy Chúa, chính những đam mê ấy đã ràng buộc con. Bao nhiêu lần con được ơn Chúa soi sáng để thoát khỏi ách nô lệ ấy, vậy mà con vẫn chưa thoát được. Cảnh nô lệ tội lỗi ngày càng đẩy con xuống vực sâu. Càng tự do thỏa mãn đam mê, con lại càng ích kỷ và nô lệ. Lạy Chúa, xin cứu con.

Chỉ có Chúa mới thấy rõ giá trị của từng sự vật và hoàn toàn tự do để chọn lựa từng sự vật theo giá trị đích thực của nó. Chúa đã chọn lựa ý Cha hơn là ý riêng của mình. Chúa chọn đau khổ, nhục nhã trên thập giá hơn là vinh quang trần gian… Chúa hoàn toàn tự do để chọn lựa điều tốt nhất. Và nhất là, Chúa đã chịu chết như một nô lệ để giải phóng con và trả lại tự do cho con.

Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian để mạc khải sự thật cho con biết chỉ có Thiên Chúa là Cha nhân hậu và mọi người là anh em với nhau. Đó là điều cao cả nhất, còn tất cả các sự vật khác chỉ có giá trị khi nó giúp con sống tốt trong tương quan với Chúa và với anh chị em con.

Vì vậy, xin Chúa giúp con đừng bao giờ lệ thuộc vào bất cứ vật nào ngoài lệ thuộc Tình yêu và Thánh Ý Chúa Cha. Con muốn nô lệ Chúa để được tự do thật sự. Xin giúp con chỉ hưởng dùng tạo vạt khi nào chúng giúp con tìm vinh quang Chúa và phần rỗi cho con và cho anh chị em con. Xin dạy con quý trọng tự do được trả giá bằng Máu Thánh Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Lời Chúa hôm nay đặt vấn đề “giải thoát”:

1. Bài đọc 1: Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa. Vua Nabucôđônôsor bảo họ thờ lạy các thần Babilon thì họ sẽ được giải thoát. Họ không nghe vua, nhưng lại kêu xin Thiên Chúa và Ngài đã giải thoát họ.

2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do. Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.

B. Suy niệm (...nẩy mầm)

1. Bạn đang kẹt trong một tình thế rắc rối và muốn thoát ra. Có nhiều cách: dùng sức để đấu tranh, dùng mưu để đánh lừa, dùng tiền để mua chuộc…Có lẽ bạn sẽ thoát, nhưng chỉ tạm thời. Lòng bạn sẽ phập phồng lo lắng không biết lúc nào sẽ bị lôi trở lại tình thế rắc rối đó. Chỉ có một cách giải thoát bạn một cách thực sự, đó là sự thật: hãy bình tĩnh nhận định tình thế để thấy rõ sự thật của mình và của người và hai bên cùng nhau giải quyết thẳng thắn.

2a. Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về những lỗi lầm và khuyết điểm đó.

2b. Khi Đức Cha Roncalli làm khâm sứ toà thánh tại Bungari, Ngài nhận được một bức thư của một vị Linh mục chỉ trích về Ngài nhiều mặt. Đọc xong bức thư, Ngài không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị Linh mục kia. Thời gian trôi qua Ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Có lần vị Linh mục kia được Đức Giáo hoàng tiếp kiến. Vị Linh mục rất lo lắng, sợ Ngài trách về chuyện cũ. Nhưng Đức Gioan XXIII không trách mà còn nói: “Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Thánh kinh và hằng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (Mỗi ngày một tin vui).

3a. Không gì trói buộc con người chúng ta chặt bằng tội lỗi. Không gì giải thoát chúng ta, ban cho chúng ta tự do trọn vẹn bằng sự thật chứa đựng trong Lời Chúa.

3b. Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách, một người buôn Châu Âu hỏi xem anh đang đọc gì. Anh ta trả lời: “Đọc Thánh kinh”. Nhà buôn buồn cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!”. Người Phi Châu đáp: “Nếu ở đây mà Thánh kinh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi!”.

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

Nô lệ và tự do (Ga 8,31-42)

  1. Đức Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Đức Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
  2. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.

Giải phóng cho chúng ta tự do... Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Đức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.

  1. Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Đức Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).
  2. Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Nhà văn văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm, nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì!”

Hồi học ở Đại chủng viện, cha giáo Phụng vụ kể cho chúng tôi một câu chuyện có thật. Một thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên nên dọn mình xưng tội. Anh nói:

- Con chẳng có tội gì.

Ngài hỏi anh ta có chơi gái hay không? Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:

- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thường.

Ngài nói: - Anh có biết là tội lỗi điều răn thứ sáu không?

Anh ta cãi lại: - Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!

  1. Chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô hữu, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng ấy không làm nên thực chất, cái áo không làm nên ông thầy tu, chỉ có danh hiệu bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Đức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói “xem quả biết cây”, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay thánh này?
  2. Truyện: Muốn có đời sống đẹp

Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp, cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu?”

Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?”

Anh trả lời: “Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi con ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén đĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó”.

... Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không?” Cha nói: “Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ”. Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô”.

Top