Tài Liệu Làm Việc - Đại Hội Dân Chúa (3)
TÀI LIỆU LÀM VIỆC – ĐẠI HỘI DÂN CHÚA VIỆT NAM
Phần I, Chương III (số 18–31) ● Phần II, C (số 37, 38)
CHƯƠNG III
SỨ VỤ
GIÁO HỘI VIỆT NAM và
SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG
(18) Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo, nên Giáo Hội không thể không loan báo Tin mừng. Ơn phúc đón nhận đức tin nơi một cộng đoàn hay một cá nhân luôn gắn liền với bổn phận và trách nhiệm loan báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16). Như Tông huấnLoan báo Tin Mừng đã nêu ra, sứ mạng ấy bao gồm những công tác đa dạng, không chỉ đơn thuần là loan báo Tin mừng cho những người chưa biết Chúa, nhưng còn đòi hỏi cả việc phúc âm hóa chính bản thân người tín hữu cũng như môi trường xã hội, văn hóa họ đang sống. Hiểu như thế, truyền giáo không có nghĩa là “áp đặt đức tin của Hội thánh trên kẻ khác,” nhưng đúng hơn là chia sẻ một tình yêu vĩ đại (x. Ga 3,16; 15:13), một tình yêu đi đến cùng (x. Ga 13,1) để làm cho đời sống của chính người môn đệ đạt ý nghĩa sung mãn, (Pl 3,7-9) ngay cả khi không thể nói bằng lời.
1. Thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô trên quê hương Việt Nam ngày nay
(19) Sứ vụ yêu thương phục vụ gắn liền với bản chất của Giáo Hội, và việc thực thi bác ái là công tác đặc thù của những người môn đệ Chúa Kitô. Thật vậy, “Giáo Hội không bao giờ miễn trừ cho mình việc thực hành bác ái xét như các hoạt động có tổ chức của các tín hữu, và đàng khác, không bao giờ có một tình trạng mà trong đó người ta lại không cần tới bác ái của mỗi Kitô hữu, vì con người, ngoài công bằng ra, vẫn và sẽ còn cần đến tình yêu.” Thánh Augustinô dạy các tín hữu hãy ca ngợi Thiên Chúa bằng cả con người, nghĩa là “không phải chỉ có miệng lưỡi và tiếng nói, mà cả lương tâm của anh chị em, đời sống của anh chị em, hành động của anh chị em cũng ca tụng Thiên Chúa ... Ai không ngừng sống tốt, người ấy vẫn ca tụng Thiên Chúa. Bạn thôi không ca tụng Thiên Chúa khi bạn bỏ không sống công chính và không làm điều đẹp lòng Thiên Chúa.”
Ngay từ khi hiện diện trên đất nước này, Giáo Hội tại Việt Nam đã chọn con đường yêu thương và phục vụ con người, mưu cầu hạnh phúc đích thực cho anh chị em đồng bào trong ánh sáng của niềm tin vào Chúa Kitô. Các tín hữu Việt Nam được mời gọi thờ phượng Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần dẫn mình vào đời sống thờ phượng đích thực đi liền với việc “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian,” (Gc 1,27) đồng thời “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng” (1 Pr 3,21). Ngay cả khi bị hiểu lầm và bách hại, nhiều tín hữu Việt Nam vẫn tỏ rõ tấm lòng ái quốc và yêu thương mọi người. Tiếp nối tinh thần các chứng nhân anh dũng của đức tin và đức mến, người công giáo Việt Nam luôn nỗ lực bước theo con đường hiền lành, tha thứ và xây dựng hòa bình (x. Mt 5,1-10), chân thành và khiêm tốn phục vụ anh chị em đồng bào và đồng loại như người tôi tớ.
Trong hoàn cảnh hiện nay cũng như tương lai, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc phục vụ sự sống và sự phát triển con người toàn diện. Các môn đệ Chúa Kitô có thể thực thi sứ mạng phục vụ trong yêu thương bằng cách tổ chức và tham gia những công tác bác ái từ thiện, giúp đỡ những người nghèo khổ thiếu thốn, đặc biệt những ai đang gặp thiên tai, hoạn nạn. Đồng thời, những người có trách nhiệm cũng phải đặc biệt quan tâm tìm cách nâng cao đời sống của dân chúng nhờ những chương trình giáo dục tri thức và đạo đức, nhằm cổ võ lối sống liên đới, nhân ái, ngay thẳng, có trách nhiệm, biết hy sinh và cần mẫn thay cho bạo lực, ích kỷ, hận thù, gian dối, hưởng thụ và phóng túng. Giáo Hội cũng cần hỗ trợ nhiều hơn nữa cho những chương trình giáo dục nhân bản, tạo thêm điều kiện cho những giao lưu sinh hoạt lành mạnh, xây dựng nhóm bạn bè tốt, vận dụng các hoạt động giải trí, văn hoá, thể thao cho nhiều thành phần dân chúng trong xã hội. Ngoài ra, Giáo Hội cũng mời gọi mọi thành phần Dân Chúa “dấn thân cách trung thành nhằm xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng.”
Qua mọi hoạt động bác ái-phục vụ, các tín hữu Việt Nam, cá nhân cũng như cộng đoàn, mong muốn giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em lương dân bằng chứng tá đời sống, vì biết rằng ngày nay, dân chúng mong muốn thấy và gặp những chứng nhân hơn là những thầy dạy.
2. Thi hành sứ vụ trong tinh thần đối thoại và cộng tác
(20) Xuất phát từ mầu nhiệm hiệp thông, hoạt động truyền giáo của Giáo Hội luôn được thực hiện trong tinh thần đối thoại và cộng tác. Để có thể phục vụ tốt đẹp hơn nữa một cộng đồng xã hội có những quan điểm đa dạng và khác biệt, Giáo Hội cố gắng xây dựng sự trao đổi chân thành và cởi mở, đặc biệt trong cuộc đối thoại với các tôn giáo bạn, với nền văn hoá dân tộc và với người nghèo.
a. Với các tôn giáo bạn
(21) Giáo Hội luôn xác tín về hoạt động tuy âm thầm nhưng đầy năng động và huyền nhiệm của Chúa Thánh Thần nơi các tôn giáo. Tâm thức người Việt không quá chật hẹp, sẵn sàng chấp nhận sự trao đổi và hợp tác giữa các tôn giáo. Tuy thế, vì nhiều lý do khác nhau, Giáo Hội tại Việt Namcòn nhiều hạn chế trong việc đối thoại với các tôn giáo bạn và còn phải học hỏi nhiều từ kinh nghiệm của các Giáo Hội trong các quốc gia khác tại Á châu. Những cuộc gặp gỡ và trao đổi với các tôn giáo bạn chắc chắn sẽ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho việc cộng tác nhằm lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Mặt khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác với các tôn giáo khác, Giáo Hội càng xác lập rõ nét hơn về bản chất của chính mình và càng thêm xác tín Đức Giêsu là tương lai của nhân loại, là Alpha và Omega của toàn thể vũ trụ.
b. Với nền văn hóa dân tộc
(22) Bằng nhiều phương thế khác nhau, Giáo Hội tại Việt Nam cần tìm hiểu bản sắc dân tộc, để từ đó tìm được lối mở giúp Tin Mừng dễ dàng đi vào tâm hồn người dân Việt, đồng thời cũng tìm ra những phương thức diễn đạt đức tin Kitô giáo cách thích hợp và hiệu quả hơn. Nền văn hoá Việt Nam mang nhiều giá trị đáng trân trọng và có thể trở thành những nẻo đường thuận tiện để Giáo Hội tại Việt Nam tiến bước trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật vậy, văn hoá dân tộc vốn coi trọng nghĩa đồng bào, đạo hiếu trung, đồng thời cũng đề cao lòng hiếu khách, đức hy sinh vị tha, tình nhân ái hài hòa, và đặc biệt luôn quí chuộng đời sống tâm linh. Đây chính là những điểm gặp gỡ gần gũi với Tin Mừng của Chúa Kitô, cũng như với nếp sống Kitô hữu trong ơn gọi yêu thương, hiệp nhất, và sống nội tâm chiêm niệm. Ngoài ra, nền văn hoá Việt Nam ngày nay cũng đang gặp gỡ những trào lưu văn hóa hiện đại được du nhập từ nhiều nơi khác, những trào lưu gắn liền với kỹ thuật số, truyền thông đại chúng, kèm theo sự lan rộng của một thứ văn hóa toàn cầu mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tương đối, hưởng thụ, duy vật. Qua những tín hữu nhiệt thành và thức thời, Giáo Hội không né tránh, nhưng nỗ lực đối thoại với các trào lưu văn hóa mới mẻ và nhiều tác động ấy, để đưa vào đó một “linh hồn”, theo như cách nói của Đức Bênêđictô XVI, nhằm tin mừng hoá và mở hướng đi vào ánh rạng ngời của chân lý.
Trong cuộc đối thoại với văn hóa, Giáo Hội cũng cần chú ý đến những thực tại trần thế, tức là những thực tại xã hội, kinh tế và chính trị, cũng như tất cả những gì đang xảy ra trên đất nước này trong mọi lãnh vực. Với sự tôn trọng, chân thành nhưng thẳng thắn và kiên định, Giáo Hội tại Việt Nam cũng không ngần ngại đối thoại với Chính Quyền dân sự về những gì liên quan đến lợi ích của đất nước và dân tộc. Trong cuộc đối thoại này, Giáo Hội phải là tiếng nói của những người không có tiếng nói hoặc chưa được lên tiếng, phải vượt qua những thành kiến, để làm chứng cho` sự thật và đức ái Kitô giáo, một đức ái tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự (x.1 Cr 13,1-13).
c. Với người nghèo
(23) Theo Công đồng Vatican II, người nghèo không chỉ là đối tượng để Giáo Hội phục vụ, nhưng còn là những chủ thể mà một cách nào đó Thiên Chúa dùng để tin mừng hóa Giáo Hội. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhìn người nghèo bằng con mắt và tình cảm nhân loại, nhưng từ nhãn giới của Chúa Kitô, để khám phá ra họ như những người bạn đang cần tình yêu thương chứ không chỉ cần của cải vật chất. Đồng thời, Giáo Hội cũng nhận ra mình đã học được rất nhiều từ người nghèo, và muốn trao ban cho họ trước tiên một tình yêu nhân ái và thái độ cảm thông liên đới chân thành. Trong bối cảnh đất nước đang chuyển biến mau lẹ, nhiều hình thức nghèo khổ mới về văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tình cảm, luân lý, kinh tế đã nảy sinh và đang thúc bách Giáo Hội phải bén nhạy hơn nữa để có thể đáp ứng những nhu cầu muôn mặt của thực trạng xã hội ngày nay.
3. Những lãnh vực cần quan tâm
a. Truyền giáo
(24) Giáo Hội tại Việt Nam ý thức rõ mình chỉ là một đàn chiên bé nhỏ, nhưng luôn tri ân Thiên Chúa vì hồng ân đức tin được ban tặng. Niềm tri ân đó đi liền với thao thức truyền giáo. Vì thế, Giáo Hội khuyến khích mọi tín hữu, cá nhân cũng như đoàn thể, không chỉ quan tâm đến những anh chị em đồng đạo, nhưng hãy nỗ lực tìm cách chia sẻ niềm tin, đưa dẫn anh chị em đồng bào đến gặp gỡ Chúa Kitô và đón nhận Tin Mừng của Ngài. Giáo Hội cũng cần đặt việc loan báo Tin Mừng thành trọng tâm của mọi nỗ lực trong việc đào tạo cũng như trong các sinh hoạt mục vụ, tu đức, bác ái . . . và mong muốn huy động thêm nhiều nhân lực và tài lực hơn nữa cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Loan báo Tin Mừng là loan báo chính Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người như thánh Phaolô nhấn mạnh: “Điều chúng tôi loan báo không phải là bản thân chúng tôi nhưng là Chúa Giêsu, và chúng tôi là tôi tớ” (2 Cr 4,5). Thật vậy, “sẽ không có việc loan báo Tin Mừng đúng nghĩa nếu tên gọi, giáo huấn, đời sống, những lời hứa, Vương Quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazareth, Con Thiên Chúa, không được công bố.” Đồng thời, Giáo Hội ý thức rằng xây dựng sự hiệp nhất và hòa giải, cổ võ tình liên đới và tinh thần đối thoại, loại bỏ những thành kiến và củng cố sự tin tưởng lẫn nhau, tất cả đều là những yếu tố quan trọng trong việc thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Để có thể chu toàn sứ vụ cao cả nhưng cũng không ít khó khăn trên, hoạt động truyền giáo cần gắn liền với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Không có kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong cầu nguyện và chiêm niệm, sẽ khó lòng gặt hái thành công trong truyền giáo. Tông huấnGiáo Hội tại Châu Á nhắc nhớ chúng ta rằng: “Châu Á là chiếc nôi của những tôn giáo lớn, là nơi các cá nhân và các dân tộc khao khát điều thần linh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện, một Giáo Hội mang chiều kích tâm linh sâu xa, ngay cả khi phải dấn mình vào những mối quan tâm cụ thể trước mắt. Mọi Kitô hữu cần đến một linh đạo truyền giáo thấm đượm tinh thần cầu nguyện và chiêm niệm.”
b. Đào tạo nhân sự
(25) Yếu tố căn bản để tạo hiệu quả cho các hoạt động của Giáo Hội hệ tại việc đào tạo nhân sự. Trước hết là đào tạo giáo dân. Trong lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam, nhóm Thầy Giảng được thành lập gồm những giáo dân muốn dành trọn đời mình cho việc dạy giáo lý. Trong những giai đoạn khó khăn, chính những người giáo dân này đã đóng góp rất nhiều, hỗ trợ hàng giáo sĩ trong việc phục vụ cộng đoàn và chăm sóc các linh hồn. Hiện nay, vẫn có rất nhiều giáo dân nhiệt tình dấn thân tông đồ tại các điểm truyền giáo vùng sâu vùng xa cũng như trong những sinh hoạt mục vụ đa dạng của Giáo Hội. Dưới sự hướng dẫn của Công đồng Vatican II và Tông huấn Người Kitô hữu Giáo Dân, Giáo Hội tại Việt Nam cần đẩy mạnh việc huấn luyện và thăng tiến anh chị em giáo dân, giúp họ sống đạo với một trình độ nâng cao về giáo lý, kinh thánh và mục vụ, kể cả về nghiệp vụ chuyên môn trong các lãnh vực xã hội, để khuôn mặt Chúa Kitô phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội tại quê hương này được thêm sinh động và hấp dẫn.
Giáo Hội tại Việt Nam còn quan tâm hơn nữa đến đào tạo linh mục và tu sĩ, vì điều này ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai của Giáo Hội. Việc huấn luyện này phải hòa hợp cách sinh động bốn chiều kích nhân bản, tri thức, tu đức và mục vụ. Việc đào tạo linh mục và tu sĩ trong Giáo Hội không chạy theo số lượng nhưng trên hết, huấn luyện họ thành “những người dẫn đường chân chính và phù hợp với lòng Chúa ước mong cũng như với giáo huấn của Giáo Hội.” Để được như thế, cần có trái tim mục tử với lòng mến sâu xa đối với Chúa Kitô, được bộc lộ ra bằng nhiệt tình phục vụ Giáo Hội, một đam mê dành cho việc cứu rỗi các linh hồn, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, kết hợp với lương tâm trong sáng và đời sống tu đức vươn đến trọn hảo. Trong việc đào tạo linh mục và tu sĩ tại Việt Nam, cần phải làm cho chiều kích truyền giáo lan tỏa vào mọi môn học và hoạt động, nhờ đó các linh mục và tu sĩ tương lai được củng cố xác tín và tăng thêm nhiệt tâm truyền giáo, khả năng làm việc chung, sự nhạy bén trước những dấu chỉ thời đại và tinh thần phục vụ.
c. Giáo dục
(26) Giáo Hội tại Việt Nam nhất thiết phải đặt giáo dục thành mối quan tâm hàng đầu, cho dù hiện nay chưa thể tham gia trực tiếp vào giáo dục học đường. Giáo dục mang tầm quan trọng đặc biệt, vì không có giáo dục, Tin mừng không thể thấm sâu vào đời sống người dân cũng như quê hương, đất nước và văn hóa được. Như thế, giáo dục ở đây vượt xa việc chuẩn bị nghề nghiệp cũng như không chỉ đóng khung vào học đường, mà phải hướng tới sự phát triển con người toàn diện.
Giáo Hội muốn cống hiến một nền giáo dục toàn diện liên quan đến việc nâng cao tri thức, gắn chặt với sự tăng trưởng nhân bản và tâm linh, với mục tiêu là dẫn tới gặp gỡ Đấng Phục sinh, Con Người Hoàn Hảo. Thật vậy, giáo dục đức tin phải là sợi chỉ xuyên suốt, là tinh hoa và cùng đích của tất cả nỗ lực giáo dục gia đình, học đường và xứ đạo. Như vậy, việc dạy giáo lý không chỉ có ý nghĩa chuyển thông những kiến thức khô khan trừu tượng, hoặc hạn hẹp vào việc lãnh nhận các bí tích, nhưng phải dẫn đến gặp gỡ Chúa Kitô, nhờ đó việc giáo dục lương tâm, sự hiệp thông và lòng nhân ái mới đạt mức thành toàn. Trong một xã hội biến chuyển mau lẹ, việc giáo dục cần nhạy bén để nhận ra và đáp ứng những thay đổi trong các lãnh vực văn hóa, xã hội.
Sứ vụ giáo dục cần đến sự hợp lực cộng tác từ gia đình đến giáo xứ, từ cha mẹ đến thầy cô, từ giáo lý viên đến linh mục tu sĩ. Đặc biệt, gia đình đóng vai trò bất khả chuyển nhượng hoặc thay thế trong tiến trình giáo dục giúp nhận ra được ơn gọi của con em mình trong lòng Giáo Hội.
d. Truyền thông xã hội
(27) Đất nước Việt Nam đang chứng kiến sự bùng nổ của truyền thông. Gắn liền với sự bùng nổ này là một nền văn hoá mới với những phương tiện truyền thông mới, ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và tâm lý mới. Thật vậy, truyền thông ngày nay là một sức mạnh có khả năng hướng dẫn suy nghĩ và lối sống của quần chúng, đem đến nhiều điều tốt đẹp nhưng đồng thời cũng có thể gây ra những tác hại và chia rẽ. Ý thức rõ vai trò là thày dạy chân lý, Giáo Hội cần can đảm và tích cực hơn nữa đi vào lãnh vực này, nhờ những tín hữu có năng lực chuyên môn cùng với một lương tâm trong sáng được soi dẫn bởi giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Được vận dụng cách chính đáng và hữu hiệu, truyền thông có thể trở thành phương tiện hữu ích cho việc truyền giáo, xây dựng tình huynh đệ, loan truyền chân lý và phục vụ Nước Trời. Vì thế, Giáo Hội cần quan tâm nhiều hơn đến lãnh vực này trong kế hoạch mục vụ của mình ở cấp giáo phận cũng như cấp quốc gia. Cần đầu tư nhân sự và phương tiện làm việc, đồng thời cần có sự cộng tác và hợp lực giữa các giáo phận và các dòng tu cũng như giữa các giáo phận với nhau.
e. Môi sinh
(28) Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển. Tuy thế, sự phát triển ồ ạt và thiếu kiểm soát của tiến trình công nghiệp hóa, mức độ thấp kém của cơ sở hạ tầng, sự yếu kém trong ý thức trách nhiệm của dân chúng về vệ sinh môi trường, cách tìm lợi nhuận bất chấp công ích và cả tệ nạn tham nhũng, tất cả những điều đó đã khiến cho môi sinh của đất nước xuống cấp trầm trọng. Tình trạng ô nhiễm môi sinh đang gây những hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Hơn thế nữa, cả tương lai lâu dài của đất nước cũng bị đe doạ vì việc khai thác và sử dụng những tài nguyên thiên nhiên không chỉ liên quan đến những con người đang sống hôm nay mà còn liên hệ đến những thế hệ tương lai.
Bao lâu thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên còn bị khai thác chỉ vì lợi nhuận và thoả mãn hưởng thụ mà thôi, bấy lâu môi sinh còn bị tàn phá trầm trọng. Người Kitô hữu cần “biết chuyên cần làm việc không những để no cơm ấm áo và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm rạng danh Cha và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế.” Thiên Chúa không trao thiên nhiên vào tay chúng ta như những kẻ khai thác không thương xót nhưng như những người quản lý khôn ngoan và có trách nhiệm. Do đó, việc bảo vệ môi sinh không chỉ là vấn đề mang tính kỹ thuật đơn thuần nhưng còn là vấn đề đạo đức. Giáo Hội tại Việt Nam cần phải học hỏi, suy tư và thực thi những giáo huấn của Giáo Hội về trách nhiệm đối với sự thiện hảo của những gì đã được Thiên Chúa tạo thành.
4. Gia đình, Giới trẻ, Di dân: những mối quan tâm
a. Gia đình
(29) Được thừa hưởng nền văn hóa đạo hiếu, người tín hữu Việt Nam đã xây dựng truyền thống đức tin vững mạnh gắn liền với nếp sống gia đình. Gia đình chính là đơn vị đầu tiên và chính yếu của Giáo Hội đến nỗi được gọi là Giáo Hội tại gia. Nhiều vị tử đạo Việt Nam đã dành những lời khuyên cuối cùng cho con cháu trong gia đình. Các thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã phản ánh mối quan tâm đặc biệt đến mục vụ gia đình. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng nền văn minh vật chất ngày nay đã gây ra nhiều tác động xấu trên gia đình truyền thống. Nhiều gia đình công giáo cũng bị chi phối. Vì thế, Giáo Hội tại Việt Nam cần canh tân những chương trình mục vụ, giúp đào tạo ngay từ gia đình những Kitô hữu thánh thiện, nhiệt thành tham gia các sinh hoạt trong cộng đoàn, tích cực dấn thân làm tông đồ, ươm mầm cho ơn gọi linh mục và tu sĩ; các giáo xứ cần có chương trình mục vụ tiền hôn nhân cũng như hậu hôn nhân, để đồng hành với các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân cũng như hiện diện với họ trong những lúc gặp khó khăn, thử thách, mời gọi mọi thành viên thánh hóa cuộc sống gia đình qua việc nâng cao những giá trị đạo đức, luân lý và nhân bản của đời sống gia đình theo ánh sáng đức tin. Đối nghịch với phong trào ly dị và phá thai được xã hội tân tiến cổ võ, người công giáo nhất tâm xây dựng gia đình mình thành Giáo Hội tại gia, nổi bật về sự chung thủy, yêu thương nhau và sinh sản có trách nhiệm, luôn đón nhận con cái như món quà quí giá từ Thiên Chúa nhân hậu và quan tâm giáo dục con cái theo Luật Chúa.
b. Giới trẻ
(30) Trong những năm gần đây, Giáo Hội tại ViệtNam đã có kinh nghiệm về việc giới trẻ bị đẩy xa khỏi tầm tay của mình do tác động của xã hội, văn hoá và lối sống mới. Đồng thời, Giáo Hội cũng ý thức rằng cách nào đó mình đang để mất dần giới trẻ. Vì thế, những người hữu trách cần phải canh tân kế hoạch mục vụ giới trẻ để có thể giúp giới trẻ có hướng đi đúng đắn cho cuộc sống, xây dựng bản thân và phục vụ Giáo Hội và xã hội. Cần cổ võ phương án “người trẻ làm tông đồ cho giới trẻ” vì người trẻ không chỉ là đối tượng được chăm sóc mục vụ nhưng chính họ là những chủ thể năng động, nhiệt thành và đầy sáng tạo trong đời sống cũng như trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Giáo xứ, các đoàn thể và phong trào giới trẻ nên đồng hành với người trẻ không những trong việc dạy giáo lý nhưng còn cả trong việc tư vấn và hướng nghiệp.
c. Di dân
(31) Việc phát triển đất nước không đồng đều đã khiến bộ mặt của một số miền thay đổi hẳn. Có những vùng chỉ còn lại người già và trẻ em, trong khi nhiều nơi đã trở thành quá chật hẹp vì con số di dân khổng lồ. Việc thay đổi nơi cư trú cũng đã làm thay đổi nếp sinh hoạt trong các lãnh vực tôn giáo, văn hóa, kinh tế và xã hội, ở nơi người di dân tìm đến cũng như nơi họ bỏ đi, trên bản thân họ cũng như trên gia đình họ. Giáo Hội tại Việt Namphải tiếp nhận dấu chỉ thời đại này, và ứng xử cách khẩn cấp và có hiệu quả. Cần phải có kế hoạch mục vụ lâu dài nâng đỡ anh chị em di dân hợp thời và hợp cách, giúp họ hội nhập vào môi trường mới cũng như vào Giáo Hội địa phương nơi họ sinh sống. Cần thiết lập mối tương quan huynh đệ cũng như sự cộng tác chân thành giữa các giáo phận và giáo xứ để các hoạt động mục vụ di dân, cách riêng trong lãnh vực gia đình và giáo dục, biết quan tâm đến việc phục vụ con người, chứ không phải chỉ để bảo toàn luật lệ. Kinh nghiệm lịch sử dạy chúng ta rằng khi được quan tâm đúng mức, chính anh chị em di dân sẽ là những chủ thể tích cực và năng động trong các sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội địa phương, cũng như trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
|
||
LỜI NGUYỆN DÂNG LÊN ĐỨC MẸ LA VANG
(32) Lạy Đức Mẹ La Vang,
Chúng con tin tưởng và cảm nhận Mẹ hằng che chở phù trì Giáo Hội Việt Nam trong mọi chặng đường, khi an vui cũng như lúc u sầu, khi hân hoan cũng như lúc khó khăn, thử thách.
Mẹ đã từng nâng đỡ và củng cố đức tin nơi các bậc cha anh chúng con, nay chúng con xin phó thác cho Mẹ ý chí và nỗ lực canh tân đời sống Giáo Hội trên quê hương đất nước chúng con.
Mẹ đã trao phó trọn vẹn con người và cuộc đời mình cho Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết vun trồng sự kết hợp với Chúa Giêsu như chi thể với Đầu, siêng năng tham dự Lễ Tạ Ơn cách sống động và tích cực, và khiêm nhường đón nhận ơn thanh tẩy nơi bí tích Hòa Giải
Mẹ đã ghi nhớ Lời Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng, xin giúp chúng con biết yêu mến và đêm ngày suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa nên lương thực nuôi sống và ánh sáng soi đường cho chúng con.
Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc Ly để nâng đỡ các thánh tông đồ, xin Mẹ dạy chúng con biết đón nhận nhau, cùng nhau xây dựng một Giáo hội hiệp thông, bằng sự cộng tác và đồng trách nhiệm trong việc thực thi sứ vụ, xứng đáng với danh hiệu là Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần.
Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà Elisabeth và giúp đỡ bà trong lúc thai nghén, xin Mẹ dạy chúng con biết chú tâm đến những khát vọng sâu xa của tha nhân, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh, để yêu thương phục vụ họ.
Lạy Mẹ La vang, Mẹ chính là khuôn mẫu lý tưởng của Giáo hội, khi hoàn toàn tự hiến cho công trình cứu chuộc của Chúa Kitô như người nữ tỳ hèn mọn. Chúng con xin phó thác cho Mẹ những đường hướng và chương trình mục vụ của Giáo Hội Việt Nam, như bằng chứng cho sự hoán cải và kiên quyết bước theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Chúng con phó dâng cho Mẹ cả những thiếu sót không thể tránh được của chúng con, vì tin rằng không ai kêu cầu Mẹ mà lại không được Mẹ trợ giúp.
Xin Mẹ thương chúc lành cho chúng con và che chở Giáo hội của Chúa Kitô tại Việt Nam bây giờ và mãi mãi. Amen.
|
bài liên quan mới nhất
- Câu hỏi tìm hiểu Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010
-
Thư Mục vụ Gp. Hải Phòng nhân dịp công bố Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa -
Tọa đàm về “Mục vụ Giới Trẻ và nền Văn minh tình thương & sự sống” -
ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm trả lời phỏng vấn của Tuần báo Công Giáo & Dân Tộc về Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 -
Thư Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đoàn Dân Chúa Việt Nam -
Giới thiệu “Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010” -
Lời Chủ Chăn tháng 04.2011 -
Cơn mưa và Tiếng trống -
Lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010 - Tạ ơn Mẹ La Vang -
Lế Bế Mạc Năm Thánh 2010 - Niềm vui và lòng tri ân của đoàn con
bài liên quan đọc nhiều
- Câu hỏi tìm hiểu Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010
-
Sứ Vụ - Missio -
Tài liệu học hỏi trong Năm Thánh: Bài 1(1): Giáo Hội là Dân Thiên Chúa -
Đại hội Dân Chúa 2010 tại Việt Nam -
Tọa đàm về “Mục vụ Giới Trẻ và nền Văn minh tình thương & sự sống” -
Tài liệu học hỏi trong Năm Thánh: Bài 2: Giáo Hội là một thực tại Hữu Hình -
Thư Mục vụ Gp. Hải Phòng nhân dịp công bố Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa -
Tài liệu học hỏi trong Năm Thánh: Bài 1 (3) Giáo Hội là Đền Thờ Chúa Thánh Thần -
ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm trả lời phỏng vấn của Tuần báo Công Giáo & Dân Tộc về Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 -
Thư Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể cộng đoàn Dân Chúa Việt Nam