Tông Huấn "Giáo Hội Tại Á Châu": kết thúc
KẾT THÚC
Lời Cám Ơn Và Khuyến Khích
50. Các anh chị em Á Châu thân mến, cuối Tông Thư Hậu Thượng Hội Đồng này, với mục đích biện phân Lời Của Thần Khí cho Giáo Hội tại Á Châu (x. Kh 1,11), và nêu lên những hoa quả của Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu của Thượng Hội Đồng các Giám Mục, tôi muốn tỏ bày lòng biết ơn đối với tất cả những người đã góp phần nào đó vào sự thành công của biến cố quan trọng này của Giáo Hội. Trước hết và hơn hết, một lần nữa, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì sự phong phú của các nền văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống và cảm thức tôn giáo tại đại lục này. Chúc tụng Thiên Chúa vì các dân tộc Á Châu, thật phong phú trong sự đa dạng, nhưng lại hiệp nhất trong niềm khát khao hòa bình và sự sống viên mãn. Cách riêng, ngày hôm nay, khi gần ngày kỷ niệm Sinh Nhật lần thứ 2000 của Đức Giêsu Kitô, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì đã chọn Á Châu làm nơi trú ngụ trần thế cho Người Con Nhập Thể, Đấng Cứu Độ trần gian.
Tôi không thể không diễn tả lòng ngưỡng mộ của tôi đối với các Giám Mục Á Châu, vì lòng yêu mến sâu sa của các Ngài đối với Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội và các dân tộc Á Châu, và vì chứng tá hiệp thông và dâng hiến quảng đại của các ngài trong công tác rao giảng Tin Mừng. Tôi cám ơn tất cả những ai họp thành đại gia đình của Giáo Hội tại Á Châu: hàng giáo sĩ, các nam nữ tu sĩ và những người được thánh hiến khác, các nhà truyền giáo, các giáo dân, các gia đình, giới trẻ, dân bản xứ, những công nhân, những người nghèo và khốn cực. Tận đáy lòng tôi có một chỗ đặc biệt dành cho những người bị bắt bớ vì lòng tin vào Đức Kitô. Họ là những trụ cột ẩn khuất của Giáo Hội. Chính Đức Giêsu nói những lời đầy an ủi nầy với họ: "Anh em được chúc phúc trong Nước Trời" (x. Mt 5,10).
Những lời nói của Đức Giêsu khích lệ Giáo Hội tại Á Châu: "Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em" (Lc 12,32). Những kẻ tin vào Đức Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ có một đức tin sống động, họ tràn đầy hy vọng và sức sống mà duy chỉ tình yêu mới có thể mang lại. Qua lối sống khiêm tốn nhưng can đảm của họ, họ đã gây ảnh hưởng đến các nền văn hóa và các xã hội tại Á Châu, cách riêng đến cuộc sống của kẻ nghèo và không ai giúp đỡ, nhiều người trong số này chưa được chia sẻ đức tin Công giáo. Họ là gương sáng cho tất cả Kitô hữu khắp nơi về thái độ sẵn sàng chia sẻ kho tàng Tin Mừng "lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" (2 Tm 4,2). Họ tìm được sức mạnh trong quyền năng vô biên của Chúa Thánh Thần, nhờ Người mà, dẫu con số thành viên của Giáo Hội tại Á Châu chung chung rất nhỏ nhoi, sự hiện diện của Giáo Hội giống như chút men trộn vào khối bột, vẫn làm cho toàn khối dậy men một cách âm thầm và kín đáo (x. Mt 23,33).
Các dân tộc Á Châu cần đến Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Á Châu đang khao khát nước hằng sống mà chỉ một mình Đức Giêsu có thể ban phát cho (x. Ga 4,10-15). Vì thế, các môn đệ Đức Kitô tại Á Châu phải quảng đại trong nỗ lực chu toàn sứ mạng họ đã lãnh nhận từ Chúa, Đấng đã hứa ở với họ cho tới tận thế (x. Mt 28,20). Với hết lòng tin tưởng vào Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi những kẻ Người kêu gọi, Giáo Hội tại Á Châu vui vẻ làm cuộc hành trình tiến vào ngàn năm thứ ba. Niềm vui duy nhất của Giáo Hội là niềm vui xuất phát từ sự chia sẻ với đông đảo các dân tộc Á Châu, ân huệ vô biên mà Giáo Hội đã lãnh nhận - tình yêu của Đức Giêsu Cứu Thế. Tham vọng duy nhất của Giáo Hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả mọi người Á Châu "có được sự sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).
Lời Cầu Nguyện Với Mẹ Đức Kitô
51. Đối diện với sứ mạng đầy thách đố như thế, chúng ta hướng về Đức Maria, Đấng mà như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói, các Kitô hữu Á Châu rất yêu mến và thiết tha, tôn kính Người như là Mẹ mình và là Mẹ Đức Kitô (240). Khắp nơi tại Á Châu, có hàng trăm thánh đường và đền thờ kính Đức Maria, nơi đó tụ họp không những người Công giáo, mà còn các người theo các tôn giáo khác nữa.
Trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba của kỷ nguyên Kitô giáo, tôi phó thác Giáo Hội tại Á Châu cho Đức Maria, gương mẫu của tất cả các môn đệ và là Ngôi Sao Sáng của việc Phúc âm hóa, tuyệt đối tin rằng đôi tai của Ngài là đôi tai luôn lắng nghe, quả tim của Ngài là quả tim luôn đón tiếp, và lời cầu của Ngài là lời cầu không bao giờ không được đáp ứng:
Lạy Đức Maria Rất Thánh, Nữ Tử của Thiên Chúa Tối Cao,
Mẹ Đồng Trinh của Đấng Cứu Thế
và Mẹ của tất cả chúng con
xin Mẹ âu yếm nhìn đến Giáo Hội của Con Mẹ
được gieo trồng trên mảnh đất Á Châu.
Xin Mẹ làm người hướng dẫn và mẫu gương cho Giáo Hội
khi Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Con Mẹ,
sứ mạng tình yêu và phục vụ tại Á Châu.
Mẹ đã chấp nhận cách hoàn toàn và tự do
tiếng gọi của Chúa Cha để làm Mẹ Thiên Chúa;
xin dạy chúng con loại bỏ ra khỏi lòng chúng con
tất cả những gì không thuộc về Chúa,
để chúng con cũng được tràn đầy
Chúa Thánh Thần từ trời cao.
Mẹ suy niệm các mầu nhiệm của thánh ý Chúa
trong tĩnh lặng của lòng Mẹ;
xin giúp chúng con trong cuộc hành trình
biết biện biệt những dấu chỉ của bàn tay uy quyền của Chúa.
Mẹ đã mau mắn đi thăm viếng bà Elizabeth
và giúp bà trong những ngày chờ đợi của bà;
xin cầu cho chúng con
cũng được một tinh thần sốt mến và phục vụ
trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của chúng con.
Mẹ đã hát bài ngợi khen Chúa;
xin dẫn dắt chúng con
biết hân hoan loan báo niềm tin vào Đức Kitô,
Đấng Cứu Độ chúng con.
Mẹ đã xót thương những kẻ thiếu thốn
và nói với Con Mẹ giùm cho họ;
xin dạy chúng con đừng bao giờ e sợ
phải nói về thế giới cho Đức Giêsu
và phải nói về Đức Giêsu cho thế giới.
Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá
khi Con Mẹ thở hơi cuối cùng;
xin Mẹ ở với chúng con
khi chúng con tìm cách nên một
trong tinh thần và trong phục vụ
với tất cả những ai đau khổ.
Mẹ đã cầu nguyện với các môn đệ trên Lầu Cao;
xin giúp chúng con biết trông chờ Thần Khí
và đi tới nơi nào Thần Khí hướng dẫn chúng con.
Xin bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực
đang đe doạ Giáo Hội.
Xin giúp Giáo Hội trở nên một hình ảnh đích thực
của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Xin cầu giúp nguyện thay
để nhờ tình yêu và phục vụ của Giáo Hội
tất cả các dân tộc Á Châu có thể biết Con của Mẹ,
Đức Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới,
và hưởng nếm niềm vui sự sống viên mãn.
Ôi Maria, Mẹ của Thọ Tạo Mới
và Mẹ của Á Châu,
xin cầu cho chúng con là con cái Mẹ,
bây giờ và mãi mãi!
(Ban hành tại New Delhi, Ấn Độ, ngày 6/11/1999
năm thứ 22 Triều Giáo Hoàng của TA)
CHÚ THÍCH:
(1) John Paul II, Address to the Sixth Plenary Assembly of the Federation of Asian Bishops' Conferences (FABC), Manila (15 January 1995), 11: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
(2) Apostolic Letter Tertio Millennio Adveniente (10 November 1994), 38: AAS 87 (1995), 30.
(3) No. 11: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
(4) John Paul II, Apostolic Letter Tertio Millennio Adveniente (10 November 1994), 38: AAS 87 (1995), 30.
(5) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Nuntius (Final Message), 2.
(6) Address to the Sixth Plenary Assembly of the Federation of Asian Bishops' Conferences (FABC), Manila (15 January 1995), 10: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.
(7) John Paul II, Letter Concerning Pilgrimage to the Places Linked to the History of Salvation (29 June 1999), 3: L'Osservatore Romano (30 June - 1 July 1999), 8.
(8) Cf. Propositio 3.
(9) Propositio 1.
(10) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Lineamenta, 3.
(11) Cf. ibid.
(12) Cf. Propositio 32.
(13) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Instrumentum Laboris, 9.
(14) Cf. Propositiones 36 and 50.
(15) Propositio 44.
(16) Propositio 27.
(17) Cf. Propositio 45.
(18) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Instrumentum Laboris, 9.
(19) Cf. Propositio 39.
(20) Propositio 35.
(21) Cf. Propositio 38.
(22) Cf. Propositio 22.
(23) Cf. Propositio 52.
(24) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Lineamenta, 6.
(25) Cf. Propositio 56.
(26) John Paul II, Apostolic Letter Tertio Millennio Adveniente (10 November 1994), 18: AAS 87 (1995), 16.
(27) Cf. Propositio 29.
(28) Cf. Propositiones 29 and 31.
(29) Propositio 51.
(30) Cf. Propositiones 51, 52 and 53.
(31) Propositio 57.
(32) Cf. ibid.
(33) Propositio 54.
(34) No. 3: AAS 83 (1991), 252.
(35) Cf. Propositio 5.
(36) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 5.
(37) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 3.
(38) Propositio 8.
(39) No. 11: AAS 83 (1991), 260.
(40) Ibid.
(41) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 3.
(42) Roman Missal: Eucharistic Prayer I for Masses of Reconciliation.
(43) John Paul II, Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), 10: AAS 71 (1979), 274.
(44) Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 22.
(45) No. 9: AAS 71 (1979), 272f.
(46) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 3.
(47) Cf. ibid.
(48) Ibid.
(49) Propositio 5.
(50) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 6: AAS 83 (1991), 255.
(51) John Paul II, Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), 7: AAS 71 (1979), 269.
(52) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Dominum et Vivificantem (18 May 1986), 54: AAS 78 (1986), 875.
(53) Cf. ibid., 59: loc. cit., 885.
(54) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 28: AAS 83 (1991), 274; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 26.
(55) Cf. Propositio 11; Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Missionary Activity of the Church Ad Gentes, 4 and 15; Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 17; Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 11, 22 and 38; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 28: AAS 83 (1991), 273f.
(56) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 5.
(57) John Paul II, Encyclical Letter Dominum et Vivificantem, (18 May 1986), 50: AAS 78 (1986), 870; cf. Saint Thomas Aquynas, Summa Theologiae, III, 2, 10-12; 6, 6; 7, 13.
(58) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Dominum et Vivificantem (18 May 1986), 50: AAS 78 (1986), 870.
(59) Cf. ibid., 24: loc. cit., 832.
(60) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 28: AAS 83 (1991), 274.
(61) No. 29: AAS 83 (1991), 275; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 45.
(62) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 29: AAS 83 (1991), 275.
(63) Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 13.
(64) Propositio 12.
(65) Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 17.
(66) Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 22: AAS 68 (1976), 20.
(67) Propositio 8.
(68) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 45: AAS 83 (1991), 292.
(69) Cf. ibid., 46: loc.cit., 292f.
(70) Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Declaration on Religious Freedom Dignitatis Humanae, 3-4; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 39: AAS 83 (1991), 287; Propositio 40.
(71) Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 53: AAS 68 (1976), 41f.
(72) Address to Representatives of Non-Christians Religions, Madras (5 February 1986), 2: AAS 78 (1986), 767.
(73) Cf. Propositiones 11 and 12; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 28: AAS 83 (1991), 273f.
(74) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 5.
(75) Propositio 58.
(76) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Fides et Ratio (14 September 1998), 72: AAS 91 (1999), 61.
(77) Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 15.
(78) Cf. ibid.
(79) Ibid.
(80) Propositio 6.
(81) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 6.
(82) Ibid.
(83) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 5.
(84) Cf. Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 20: AAS 68 (1976), 18f.
(85) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 52: AAS 83 (1991), 300.
(86) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 9.
(87) Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 22; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 28: AAS 83 (1991), 273f.
(88) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 56: AAS 83 (1991), 304.
(89) John Paul II, Homily at the Mass for the Catholics of West Bengal, Calcutta (4 February 1986), 3: Insegnamenti IX, 1 (1986), 314.
(90) Cf. Propositio 43.
(91) Cf. Propositio 7.
(92) Ibid.
(93) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 54: AAS 83 (1991), 302.
(94) Cf. ibid.: loc. cit., 301.
(95) Cf. Second Vatican Ecumenical Council, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium, 10; Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 14.
(96) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 14; Propositio 43.
(97) Cf. Propositio 43.
(98) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio post disceptationem, 13.
(99) Cf. Propositio 17.
(100) Cf. Propositio 18.
(101) Cf. Propositio 17.
(102) Nos. 60; 62; 105: AAS 91 (1999), 52f.; 54; 85f.
(103) Cf. Propositio 24.
(104) Cf. Propositio 25.
(105) Cf. ibid.
(106) Cf. Propositio 27.
(107) Cf. Propositio 29.
(108) Cf. Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 91: AAS 83 (1991), 338.
(109) Propositio 19.
(110) Propositio 8.
(111) Declaration on Religious Freedom Dignitatis Humanae, 2.
(112) Propositio 6.
(113) Saint Augustine, De Civitate Dei, XVIII, 51, 2: PL 41, 614; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 8.
(114) Second Vatican Ecumenical Council, Decree on the Missionary Activity of the Church Ad Gentes, 7; cf. Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 17.
(115) Paul VI, Address to the College of Cardinals (22 June 1973): AAS 65 (1973), 391.
(116) John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Christifideles Laici (30 December 1988), 18: AAS 81 (1989), 421.
(117) Cf. ibid.; Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 4.
(118) Cf. Catechism of the Catholic Church, 775.
(119) Cf. ibid.
(120) John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Christifideles Laici (30 December 1988), 32: AAS 81 (1989), 451f.
(121) Cf. Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 16.
(122) Propositio 13.
(123) Ibid.
(124) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 6.
(125) Propositio 13; cf. Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 22.
(126) Cf. Propositio 13.
(127) Cf. Propositio 15; Congregation for the Doctrine of the Faith, Letter to the Bishops of the Catholic Church on Some Aspects of the Church Understood as Communion Communionis Notio (28 May 1992), 3-10: AAS 85 (1993), 839-844.
(128) Cf. Propositio 15.
(129) Cf. ibid.
(130) Cf. Propositio 16.
(131) Propositio 34.
(132) Cf. Propositio 30; cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 51: AAS 83 (1991), 298.
(133) Cf. Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 58: AAS 68 (1976), 46-49; John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, 51: AAS 83 (1991), 299.
(134) Cf. Propositio 31.
(135) Cf. Propositio 14.
(136) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 6.
(137) Cf. Propositio 50.
(138) Cf. Propositiones 36 and 50.
(139) Cf. John Paul II, Address to the Synod of Bishops of the Syro-Malabar Church (8 January 1996), 6: AAS 88 (1996), 41.
(140) Cf. Propositio 50.
(141) Cf. Propositio 56.
(142) Cf. Propositio 51.
(143) Cf. Propositio 52.
(144) Propositio 53.
(145) Cf. Propositio 57.
(146) Cf. Letter Concerning Pilgrimage to the Places Linked to the History of Salvation (29 June 1999), 7: L'Osservatore Romano (30 June - 1 July 1999), 9.
(147) AAS 56 (1964), 613.
(148) Cf. Propositio 42.
(149) Ibid.
(150) John Paul II, Address at the General Audience (26 July 1995), 4: Insegnamenti XVIII, 2 (1995), 138.
(151) Cf. John Paul II, Address at the General Audience (20 January 1982), 2: Insegnamenti V, 1 (1982), 162.
(152) Cf. No. 53: AAS 87 (1995), 37.
(153) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 55: AAS 83 (1991), 302.
(154) Cf. ibid.: loc. cit., 304.
(155) No. 4: AAS 83 (1991), 101f.
(156) No. 56: AAS 83 (1991), 304.
(157) Propositio 41.
(158) Ibid.
(159) Cf. ibid.
(160) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 57: AAS 83 (1991), 305.
(161) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Vita Consecrata (25 March, 1996), 8: AAS 88 (1996), 383.
(162) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 47: AAS 80 (1988), 582.
(163) Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 1.
(164) Bằng nhiều cách, điểm khởi phát là Tông Thư Rerum Novarum của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (15/5/1891) đã dẫn tới một loạt tuyên bố chính thức của Giáo Hội về nhiều phương diện khác nhau của vấn đề xã hội. Giữa những tuyên bố này là Tông Thư Populorum Progressio (26/3/1967) mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã phổ biến để đáp ứng những giáo huấn của Công Đồng Vatican II và hoàn cảnh thay đổi của thế giới. Để kỷ niệm 20 năm ngày Tông Thư này được ban hành, tôi đã cho ra Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), tiếp nối Giáo Huấn trước đây, tôi kêu mời tất cả các Kitô hữu hãy xem chính mình như được gọi để lãnh sứ mạng phục vụ, việc này cần thiết để thăng tiến sự phát triển con người toàn diện.
(165) John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 41: AAS 80 (1988), 570f.
(166) Cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction on Christian Freedom and Liberation Libertatis Conscientia (22 March 1986), 72: AAS 79 (1987), 586.
(167) Cf. Propositio 22.
(168) Cf. Propositio 21.
(169) Cf. John Paul II, Post Synodal Apostolic Exhortation Christifideles Laici (30 December 1988), 5: AAS 81 (1989), 400-402; Encyclical Letter Evangelium Vitae (25 March 1995), 18: AAS 87 (1995), 419f.
(170) Propositio 22; cf. Propositio 39.
(171) John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 42: AAS 80 (1988), 573; cf. Congregation for the Doctrine of the Faith, Instruction on Christian Freedom and Liberation Libertatis Conscientia (22 March 1986), 68: AAS 79 (1987), 583.
(172) Cf. Propositio 44.
(173) Cf. ibid.
(174) Cf. Propositio 39.
(175) Cf. Propositio 22.
(176) Cf. Propositio 36.
(177) Cf. Propositio 38.
(178) Cf. ibid.
(179) Cf. Propositio 33.
(180) Cf. ibid.
(181) Cf. Propositio 35.
(182) Cf. ibid.
(183) Propositio 32.
(184) Cf. John Paul II, Apostolic Letter Salvifici Doloris (11 February 1984), 28-29: AAS 76 (1984), 242-244.
(185) Cf. Propositio 20.
(186) Cf. ibid.
(187) Cf. Propositio 21.
(188) Cf. ibid.
(189) Cf. ibid.
(190) Cf. Propositio 23.
(191) Cf. ibid.
(192) Cf. Propositio 55.
(193) Cf. Propositio 49.
(194) John Paul II, Message for the World Day of Peace (1 January 1998), 3: AAS 90 (1998), 50.
(195) Cf. Propositio 49.
(196) Cf. Propositio 48.
(197) Cf. ibid.; John Paul II, Apostolic Letter Tertio Millennio Adveniente (10 November 1994), 51: AAS 87 (1995), 36.
(198) Cf. Propositio 48.
(199) Cf. Propositio 22; John Paul II, Encyclical Letter Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 44: AAS 80 (1988), 576f.
(200) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptor Hominis (4 March 1979), 15: AAS 71 (1979), 287.
(201) Cf. ibid.
(202) Cf. Propositio 47.
(203) Homilies on the Gospel of Matthew, 50, 3-4: PG 58, 508-509.
(204) Cf. Decree on the Church's Missionary Activity Ad Gentes, 2 and 35.
(205) Cf. John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 31: AAS 83 (1991), 277.
(206) Ibid. 42: loc. cit., 289.
(207) Ibid.
(208) Cf. Propositio 25.
(209) Cf. ibid.
(210) Cf. Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 46.
(211) Cf. Propositio 27.
(212) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Vita Consecrata (25 March 1996), 103: AAS 88 (1996), 479.
(213) Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 69: AAS 68 (1976), 59.
(214) Cf. Propositio 27.
(215) Cf. ibid.
(216) Cf. ibid.
(217) Cf. Propositio 28.
(218) Ibid.
(219) Cf. Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 31.
(220) Cf. Propositio 29.
(221) Cf. ibid.
(222) Cf. ibid.
(223) John Paul II, Address at the General Audience (13 July 1994), 4: Insegnamenti XVII, 2 (1994), 40.
(224) Cf. Propositio 35.
(225) Cf. ibid.
(226) Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 11.
(227) Cf. Special Assembly for Asia of the Synod of Bishops, Relatio ante disceptationem: L'Osservatore Romano (22 April 1998), 6.
(228) Cf. Propositio 32.
(229) Cf. Propositio 33.
(230) John Paul II, Address to the Confederation of Family Advisory Bureaus of Christian Inspiration (29 November 1980), 4: Insegnamenti III, 2 (1980), 1454.
(231) Cf. Propositio 34.
(232) Ibid.
(233) John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 37: AAS 83 (1991), 285.
(234) Ibid.
(235) Ibid.
(236) Cf. Propositio 45.
(237) Cf. ibid.
(238) Cf. ibid.
(239) No. 13: AAS 91 (1999), 142.
(240) Cf. Propositio 59.
bài liên quan mới nhất
- Giáo huấn vui. Kỳ 3: số 14-18 Vui Mừng và Hân Hoan
-
Tóm tắt tông huấn 'Christus Vivit - Đức Kitô sống' -
Tính hài hước và sự thánh thiện theo Đức Phanxicô trong Tông huấn Gaudete et Exsultate -
Công bố Tông huấn Gaudete et Exultate của Đức Thánh Cha Phanxicô -
Các hồng y tác giả của “Năm điểm dubia (hoài nghi) về Tông huấn Amoris Laetitia” lại gửi thư cho Đức Thánh Cha Phanxicô -
Những bức xúc của ĐGH Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm 2013 -
Malta: Các Giám mục ban hành văn kiện “Những tiêu chí áp dụng Chương VIII Tông huấn Amoris Laetitia” -
Giới thiệu Tông huấn “Niềm vui của Tình yêu”, bản Việt ngữ -
Hướng dẫn đọc Amoris Laetitia -
Suy nghĩ về Tông huấn Amoris Laetitia
bài liên quan đọc nhiều
- 40 câu hỏi & đáp về Tông huấn Familiaris Consortio
-
Tóm tắt tông huấn 'Christus Vivit - Đức Kitô sống' -
Công bố Tông huấn Gaudete et Exultate của Đức Thánh Cha Phanxicô -
Tính hài hước và sự thánh thiện theo Đức Phanxicô trong Tông huấn Gaudete et Exsultate -
Giới Thiệu Tông Huấn "Giáo Hội Tại Á Châu" (Ecclesia in Asia) -
Những câu hỏi thông thường về Tông huấn Amoris Laetitia -
Tông huấn "Lời Chúa" của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (1) -
Giáo huấn vui. Kỳ 3: số 14-18 Vui Mừng và Hân Hoan -
“Hội Nhập Văn Hóa” và “Đối Thoại Liên Tôn” trong Tông huấn Verbum Domini -
Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia