Tông huấn Sacramentum Caritatis: phần I
PHẦN THỨ NHẤT
BÍ TÍCH THÁNH THỂ,
MẦU NHIỆM MÀ CHÚNG TA TIN
“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm,
là tin vào Đấng Ngài đã sai đến” (Ga 6,29).
[1] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1327.
[2] Propositio 16.
[3] Bênêđíctô XVI, Bài giảng nhân Thánh Lễ Nhậm Chức tại Đền Thờ thánh Gioan Latêranô (7-5-2005) : AAS 97 (2005), tr. 725.
[4] x. Propositio 4.
[5] De Trinitate, VIII, 8, 12 : CCL 50, 287.
[6] Thông điệp Deus caritas est – Thiên Chúa là Tình Yêu (25-12-2005), số 12 : AAS 98 (2006), tr. 228.
[7] x. Propositio 3.
[8] Kinh Nhật Tụng Rôma, Thánh thi Kinh Sách lễ Mình Máu Thánh Chúa.
[9] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus caritas est - Thiên Chúa là Tình Yêu (25-12-2005), số 13 : AAS 98 (2006), tr. 228.
[10] x. Bênêđíctô XVI, Bài giảng tại cánh đồng Marienfeld (21-8-2005) : AAS 97 (2005), tr. 891-892.
[11] x. Propositio 3.
[12] x. Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể IV.
[13] Giáo Lý XXIII, 7 : PG 33, 1114 s.
[14] x. De Sacerdotio, VI, 4 : PG 48, 681.
[15] Ibidem, III, 4 : PG 48, 642.
[16] Propositio 22.
[17] x. Propositio 42 : “Cuộc gặp gỡ Thánh Thể này được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi và thánh hóa chúng ta. Ngài đánh thức nơi người môn đệ ước muốn quyết liệt loan báo cho những người khác với lòng can đảm những gì đã nghe và đã sống, để dẫn đưa họ đến gặp gỡ chính Đức Kitô. Bằng cách này, khi được Hội Thánh sai đi, người môn đệ tự mở rộng một sứ vụ không biên giới”.
[18] xX. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế tín lý về Hội Thánh Lumen Gentium, số 3 ; ví dụ, xem T. Gioan Kim Khẩu, Giáo Lý 3,13-19 : SC 50, tr. 174-177.
[19] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), số 1 : AAS 95 (2003), tr. 433.
[20] Ibidem, 21 : AAS 95 (2003), tr. 447.
[21] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis (4-3-1979), số 20 : AAS 71 (1979), tr. 309-316 ; Tông thư Dominicae Cenae (24-02-1980), số 4 : AAS 72 (1980), tr. 119-121.
[22] x. Propositio 5.
[23] T. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III, q. 80, a 4.
[24] số 38 : AAS 95 (2003), tr. 458.
[25] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 23.
[26] Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Lá thư về một vài khía cạnh của toàn thể Hội Thánh như là sự hiệp thông Communionis Notio (28-5-1992), số 11 : AAS 85 (1993), tr. 844-845.
[27] Propositio 5 : “Thuật ngữ ‘công giáo’ diễn tả tính phổ quát phát xuất từ sự hiệp nhất mà Bí tích Thánh Thể, được cử hành nơi mỗi Giáo Hội, khích lệ và xây dựng. Như thế, trong Bí tích Thánh Thể, các Giáo Hội địa phương có phận vụ làm cho sự hiệp nhất và khác biệt của chính mình được trở nên hữu hình. Mối dây bác ái huynh đệ này làm cho sự hiệp thông ba ngôi được tỏ bày. Các Công Đồng và các Thượng Hội Đồng đã diễn tả khía cạnh huynh đệ này qua dòng lịch sử”.
[28] x. ibidem.
[29] Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, số 5.
[30] x. Propositio 14.
[31] Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 1.
[32] De Orat. Dom., 23 : PL 4, 553.
[33] Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 48 ; xt. ibidem số 9.
[34] x. Propositio 13.
[35] x. Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 7.
[36] x. ibidem, số 11 ; Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Hội Thánh Ad Gentes, số 9.13.
[37] x. Gioan Phaolô II, Tông thư Dominicae Cenae (24-2-1980), số 7 : AAS 72 (1980), tr. 124-127 ; x. Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, số 5.
[38] x. Bộ Giáo Luật cho các Giáo Hội Đông Phương, đ. 710.
[39] x. Nghi thức khai tâm kitô giáo cho người trưởng thành, dẫn nhập tổng quát, số 34-36.
[40] x. Nghi thức Rửa Tội cho trẻ em, dẫn nhập, số 18-19.
[41] x. Propositio 15.
[42] x. Propositio 7 ; Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17-4-2003), số 36 : AAS 95 (2003), tr. 457-458.
[43] x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Reconciliatio et Paenitentia (2-12-1984), số 18 : AAS 77 (1985), tr. 224-228.
[44] x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1385.
[45] Ở đây chúng ta nhớ đến Kinh Thương Xót hay những lời của linh mục và cộng đoàn trước khi rước lễ : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh !”. Không phải là không có ý nghĩa khi phụng vụ chuẩn bị cả cho linh mục những lời nguyện rất đẹp, đã được truyền thống truyền lại cho chúng ta, nhắc chúng ta về nhu cầu cần được tha thứ, ví dụ như lời nguyện được đọc thầm trước khi mời các tín hữu hiệp lễ : “xin dùng Mình và Máu Thánh Chúa đây cứu con khỏi mọi tội lỗi và mọi sự dữ ; xin cho con hằng tuân giữ giới răn Chúa, và đừng để con lìa xa Chúa bao giờ”.
[46] x. T. Gioan Damasceno, Về đức tin chân thật, IV, 9 : PG 94, 1124C ; T. Gregôriô Nazianzeno, Discorso 39, 17 : PG 36, 356A ; Công đồng Trentô, Doctrina de sacramento paenitentiae, cap. 2 : DS 1672.
[47] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, số 11 ; Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Reconciliatio et Paenitentia (2-12-1984), số 30 : AAS 77 (1985), tr. 256-257.
[48] x. Propositio 7.
[49] x. Gioan Phaolô II, Tự sắc Misericordia Dei (7-4-2002) : AAS 94 (2002), tr. 452-459.
[50] Cùng với các Nghị Phụ thượng hội đồng tôi nhắc rằng các cử hành sám hối không có tính bí tích, được nói đến trong Nghi thức Bí tích Hòa Giải, có thể có ích để làm gia tăng tinh thần hoán cải và hiệp thông trong các cộng đoàn kitô giáo, như thế chuẩn bị các tâm hồn cử hành Bí tích này : x. Propositio 7.
[51] x. Bộ Giáo Luật, đ. 508.
[52] Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina (01-01-1967), Normae, số 1 : AAS 59 (1967), tr. 21.
[53] Ibidem, số 9 : AAS 59 (1967), tr. 18-19.
[54] x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1499-1531.
[55] Ibidem, số 1524.
[56] x. Propositio 44.
[57] x. Thượng Hội Đồng Giám Mục, Phiên họp khoáng đại lần thứ hai, Tài liệu về chức linh mục thừa tác Ultimis temporibus (30-11-1971) : AAS 63 (1971), tr. 898-942.
[58] x. Gioan Phaolô II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992), số 42-69 : AAS 84 (1992), tr. 729-778.
[59] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, số 10 ; Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Lá thư về vài vấn đề liên quan đến tác vụ của Bí tích Thánh Thể Sacerdotium ministeriale (6-8-1983) : AAS 75 (1983), tr. 1001- 1009.
[60] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1548.
[61] Ibidem, 1552.
[62] x. In Iohannis Evangelium Tractatus 123,5 : PL 35, 1967.
[63] x. Propositio 11.
[64] x. Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis, số 16.
[65] x. Gioan XXIII, Thông điệp Sacerdotii nostri primordia (1-8-1959) : AAS 51 (1959), tr. 545-579 ; Phaolô VI, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus (24-6-1967) : AAS 59 (1967), tr. 657-697 ; Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992), số 29 : AAS 84 (1992), tr. 703-705 ; Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho Giáo triều (22-12-2006) : L'Osservatore Romano, 23-12-2006, tr. 6.
[66] x. Propositio 11.
[67] x. Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về đào tạo linh mục Optatam totius, số 6 ; Bộ Giáo Luật, đ. 241, § 1 và đ. 1029 ; Bộ Giáo Luật cho các Giáo Hội Đông Phương, đ. 342, § 1 và đ. 758 ; Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992) số 11.34.50 : AAS 84 (1992), tr. 673-675 ; 712-714 ; 746-748 ; Thánh bộ Giáo sĩ, Chỉ nam tác vụ và đời sống linh mục Dives Ecclesiae (31-3-1994), số 58 : LEV, 1994, tr. 56-58 ; Thánh bộ Giáo dục Công giáo, Huấn thị về những tiêu chuẩn phân định ơn gọi liên quan đến những người có khuynh hướng đồng tính để xét cho họ vào chủng viện hay các chức thánh (4-11-2005) : AAS 97 (2005), tr. 1007-1013.
[68] x. Propositio 12 ; Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992) số 41 : AAS 84 (1992), tr. 726-729.
[69] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 29.
[70] x. Propositio 38.
[71] x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Familiaris consortio (22-11-1981), số 57 : AAS 74 (1982), tr. 149-150.
[72] Tông thư Mulieris dignitatem (15-8-1988), số 26 : AAS 80 (1988), tr. 1715-1716.
[73] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1617.
[74] x. Propositio 8.
[75] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 11.
[76] x. Propositio 8.
[77] x. Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris dignitatem (15-8-1988) : AAS 80 (1988), tr. 1653-1729 ; Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục của Hội Thánh công giáo về sự cộng tác của người nam và người nữ trong Hội Thánh và trong thế giới (31-5-2004) : AAS 96 (2004), tr. 671-687.
[78] x. Propositio 9.
[79] x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1640.
[80] x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Familiaris consortio (22-11-1981), số 84 : AAS 74 (1982), tr. 184-186 ; Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi các Giám mục của Hội Thánh công giáo về việc cho các tín hữu đã ly dị tái hôn rước lễ Annus Internationalis Familiae (14-9-1994) : AAS 86 (1994), tr. 974-979.
[81] x. Hội Đồng Giáo Hoàng về các Văn Bản Lập Pháp, Huấn thị về các tiêu chuẩn cần cân nhắc trong các tòa án giáo hội về các ca hôn phối Dignitas connubii (25-01-2005), Vatican, 2005.
[82] x. Propositio 40.
[83] Bênêđíctô XVI, Diễn văn tại Tòa Án của Tòa Thượng Thẩm Rôma nhân dịp khai mạc năm pháp luật (28-01-2006) : AAS 98 (2006), tr. 138.
[84] x. Propositio 40.
[85] x. ibidem.
[86] x. ibidem.
[87] x. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, 48.
[88] x. Propositio 3.
[89] Ở đây tôi ước muốn nhắc lại những lời đầy hy vọng và an ủi trong Kinh Nguyện Thánh Thể II : “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
[90] x. Bênêđíctô XVI, Bài giảng (8-12-2005) : AAS 98 (2006), tr. 15-16.
[91] Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 58.
[92] Propositio 4.
bài liên quan mới nhất
- Giáo huấn vui. Kỳ 3: số 14-18 Vui Mừng và Hân Hoan
-
Tóm tắt tông huấn 'Christus Vivit - Đức Kitô sống' -
Tính hài hước và sự thánh thiện theo Đức Phanxicô trong Tông huấn Gaudete et Exsultate -
Công bố Tông huấn Gaudete et Exultate của Đức Thánh Cha Phanxicô -
Các hồng y tác giả của “Năm điểm dubia (hoài nghi) về Tông huấn Amoris Laetitia” lại gửi thư cho Đức Thánh Cha Phanxicô -
Những bức xúc của ĐGH Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm 2013 -
Malta: Các Giám mục ban hành văn kiện “Những tiêu chí áp dụng Chương VIII Tông huấn Amoris Laetitia” -
Giới thiệu Tông huấn “Niềm vui của Tình yêu”, bản Việt ngữ -
Hướng dẫn đọc Amoris Laetitia -
Suy nghĩ về Tông huấn Amoris Laetitia
bài liên quan đọc nhiều
- 40 câu hỏi & đáp về Tông huấn Familiaris Consortio
-
Tóm tắt tông huấn 'Christus Vivit - Đức Kitô sống' -
Công bố Tông huấn Gaudete et Exultate của Đức Thánh Cha Phanxicô -
Tính hài hước và sự thánh thiện theo Đức Phanxicô trong Tông huấn Gaudete et Exsultate -
Giới Thiệu Tông Huấn "Giáo Hội Tại Á Châu" (Ecclesia in Asia) -
Những câu hỏi thông thường về Tông huấn Amoris Laetitia -
Tông huấn "Lời Chúa" của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (1) -
Giáo huấn vui. Kỳ 3: số 14-18 Vui Mừng và Hân Hoan -
“Hội Nhập Văn Hóa” và “Đối Thoại Liên Tôn” trong Tông huấn Verbum Domini -
Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia