Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 2 Phục sinh năm B
Ga 20, 19-31
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20, 29)
Kính thưa anh chị em
Chúng ta vừa nghe một câu chuyện mà chúng ta đã thuộc lòng từ khi còn nhỏ. Câu chuyện hôm nay đã trở thành một gợi hứng cho rất nhiều bài suy niệm với rất nhiều khía cạnh khác nhau. Riêng tôi qua bài Tin Mừng hôm nay tôi chỉ xin chia sẻ với anh chị em một vài cảm nghĩ rất riêng tư của mình. Nói một cách rất vắn tắt tôi thấy Tôma có những đức tính làm tôi nể phục.
1. Trước hết là sự minh bạch và rõ ràng trong lập trường của ông.
Tôma không phải là người trung lập. Ông có một lập trường rất rõ rệt. Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích. Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa không thích thái độ dở dở ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.
Để cho người ta thấy thái độ nửa vời nguy hiểm như thế nào thì chúng ta hãy nhớ lại một ít lời trong Kinh Thánh:
Trong Tin Mừng Luca Chúa bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với nước của Thiên Chúa (Lc 9, 62)
Trong sách Khải Huyền. Chúa nói với dân Laoxiđê: “Ta biết các việc ngươi làm. Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng ta (Kh 3, 15-16)
Ngày hôm nay chẳng thiếu những người giữ đạo cho có, chỉ hình thức, lạnh chẳng ra lạnh, nóng cũng chẳng ra nóng. Những người như thế đang là mối nguy cho Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tình trạng dửng dưng lạnh nhạt và lười biếng tinh thần, dứt bỏ những ươn hèn của thân xác và linh hồn để được sống lại trong đời sống mới của ơn thánh, trong hăng say yêu mến và nhiệt thành phục vụ Chúa.
2. Đức tính thứ hai mà tôi cảm phục nơi con người của Tôma là khi đã biết chắc chắn, ông sẽ đi cho đến cùng.
Đây là đức tính của những anh hùng. Người anh hùng khi đã biết chắc chắn, họ sẽ đi cho đến cùng. Khi Tôma nói: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi” thì ông đã biết ông phải sống như thế nào rồi. Tôma không đứng ở vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò ú tim tinh thần. Sở dĩ ông nghi ngờ là vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục.
Theo một cuốn sách ngoại kinh có nhan đề “Các công việc của Tôma” thì người ta thấy Tôma được mô tả là một con người rất trung thực. Sau đây là một trích đoạn có liên quan đến Tôma.
“Sau khi Chúa sống lại, các môn đệ được phân bổ khu vực để đi rao truyền Tin Mừng của Chúa cho mọi người. Mỗi người phải đến một nơi nào đó để mọi người trên khắp thế gian đều được nghe Tin Mừng. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn độ. Thoạt đầu Tôma không chịu. Ông nói:
- Tôi là một người Do thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn độ mà truyền giảng chân lý cho họ được?
Tối đến, Chúa Giêsu hiện ra với ông và bảo:
- Này Tôma, đừng sợ, hãy đến Ấn độ và giảng ở đó, vì ân sủng của Ta ở cùng con.
Lúc đó có một thương gia tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem. Ông này được vua Gundaphorus sai đi để tìm cho nhà vua một người thợ mộc giỏi để đem về Ấn độ. Tôma vốn là một thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngoài chợ và hỏi:
- Ông có muốn mua một thợ mộc không?”
Abbanes đáp:
- Muốn.
Chúa Giêsu nói:
- Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán!
Rồi Chúa chỉ Tôma đang đứng đàng xa. Hai bên ngã giá và Tôma bị bán. Tờ biên nhận viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn”. Sau khi viết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi:
- Có phải người đó là chủ của anh không?
Tôma đáp :
- Phải.
Abbanes nói:
- Tôi đã mua anh từ ông ta.
Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy thật sớm để cầu nguyện, sau đó ông đến thưa với Chúa Giêsu:
- Lạy Chúa, con xin nhận bất cứ nơi nào Chúa muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn.
Và sau đó ông lên đường.
Vâng! Đó chính là Tôma một người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi đã thuận phục thì thuận phục hoàn toàn.
Câu truyện còn tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện, Tôma tâu với vua rằng ông có đủ khả năng để làm việc ấy. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất. Sau một thời gian nhà vua sinh nghi bèn cho gọi Tôma đến hỏi:
- Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?
Ông đáp:
- Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ đời này thì hoàng thượng sẽ thấy.
Thoạt đầu nhà vua muốn nổi cơn thịnh nộ và người ta tưởng là tánh mạng của Tôma lâm nguy, nhưng cuối cùng như một phép lạ, nhà vua tin Chúa. Và như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn độ.
Kính thưa anh chị em
Con người của Tôma là thế. Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi. Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
bài liên quan mới nhất
- Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật Lễ Hiển Linh
-
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật Lễ Thánh Gia năm C -
Lễ Chúa Giáng Sinh (Lễ Đêm) -
Bài giảng: Lễ Giáng Sinh (+video) -
Lễ Chúa Giáng Sinh: Lễ Rạng Đông (+video) -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 4 mùa Vọng năm C -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 3 mùa Vọng năm C -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 2 mùa Vọng năm C -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 1 mùa Vọng năm C -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 34 Thường niên năm B - Chúa Kitô Vua
bài liên quan đọc nhiều
- Bài giảng: Lễ Giáng Sinh (+video)
-
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 14 Thường niên năm A -
Bài giảng Chúa Nhật: Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh -
Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 2 Mùa Chay - Năm A -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 29 Thường niên năm A - Khánh nhật truyền giáo -
Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 5 Thường Niên - Năm A -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 20 Thường niên năm A -
Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 5 Mùa Chay - Năm A -
Bài giảng Chúa nhật: Chúa nhật 34 Thường niên năm C - Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ -
Bài giảng Chúa nhật: Lễ Đức Mẹ Mân Côi