Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 4 Mùa Chay - Năm A

Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 4 Mùa Chay - Năm A

Bài giảng Chúa Nhật: Chúa Nhật 4 Mùa Chay - Năm A

Ga 9,1-41

Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”.
(Ga 9,38)

A. Đọc câu chuyện hôm nay, tự nhiên tôi liên tưởng đến câu chuyện trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Người đàn bà trong bài Tin Mừng tuần trước là một người có một cuộc sống thật náo nhiệt và ồn ào. Bà đã ngả từ tay người đàn ông này sang tay người đàn ông khác....tới 5-6 lần. Cuộc sống của bà là một cuộc sống thật sôi động.

Còn người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thì khác hẳn. Cuộc sống của anh ta thật bất hạnh và cô đơn. Anh sống một thân một mình, một mình một cõi, chẳng mấy ai muốn làm bè làm bạn với anh. Có lẽ gia đình anh nghèo, không đủ sức đủ lực để lo cho anh, cho nên anh phải đi khất thực để độ thân, để sống cho qua ngày.

Hai câu chuyện với hai con người khác nhau nhưng lại có một điểm chung rất thú vị. Đó là Chúa Giêsu đã tìm đến với họ. Nếu Chúa không đến gặp họ thì cuộc sống của họ chắc chẳng có gì thay đổi. Nhưng rất may là Chúa đã đến.

Từ cái nhìn và từ những lời nhận xét rất tế nhị và khôn khéo Chúa đã kéo người đàn bà ra khỏi vũng lầy của quá khứ chẳng có gì là tốt đẹp để hướng bà về một tương lai tươi sáng hơn.

Rồi cũng bằng một cử chỉ đầy yêu thương, Chúa đã đưa người mù từ cuộc sống tối tăm đến một đời sống đầy ánh sáng: Ánh sáng của đời thường - nhất là Ánh sáng của niềm tin.

B. Nhìn lại quá trình làm thay đổi cuộc sống của người mù, chúng ta thấy thật thú vị.

1- Lúc đầu, anh chẳng có một ý niệm gì về Chúa. Khi được hỏi về người đã chữa cho anh, anh trả lời một cách rất mù mờ: “Người mà người ta gọi là Giêsu". “Người mà người ta gọi là Giêsu". Đó là tất cả nhũng gì anh có thể nói về Chúa lúc ban đầu. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.

2- Thế nhưng sau khi anh được sáng mắt, từ trong cõi lòng anh đã dần dần nhận ra Chúa.

Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”.

Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.

Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”

Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.

Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn...ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì. Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.

Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí.

Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường..anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh...thật là kinh khủng. Muốn gần gần anh người ta cũng không phải sợ.

3. Thế nhưng thật may, giữa lúc cả loài người từ bỏ anh thì Chúa lại mở rộng đôi tay đón nhận. Dường như Chúa đã biết trước tất cả, cho nên ngay sau khi anh vừa buồn tủi cô đơn bước chân ra khỏi Hội đường thì Chúa đã chờ sẵn.

Băng một Tình yêu rất đặc biệt và bằng một cái nhìn rất trìu mến Chúa hỏi anh:

  • Anh có tin vào Con Người không ?

Anh thưa lại:

  • Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?

Chúa chậm rãi nói cho anh biết:

  • Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.

Bằng cả một tấm lòng trìu mến, biết ơn và bằng một giọng nói đầy xúc cảm anh thưa lại với Chúa:" Lạy Ngài, tôi tin” và anh sấp mình xuống trước mặt Chúa.

Phúc âm không nói nhưng tôi chắc là Chúa đã cúi xuống thậ sâu để ôm trọn cả con người anh trong vòng tay yêu thương của Ngài.

Chỉ một ít phút trước đó anh tưởng anh mất tất cả bây giờ anh cảm thấy anh đã có lại tất cả. Chỉ một ít ít phút trước đó anh tưởng suốt đời anh sẽ phải cô đơn nhưng bây giờ anh thấy cuộc đời anh có hạnh phúc.

Cả loài người bỏ anh, nhưng Chúa đón nhận anh.

Cả loài người muốn xa cách anh, nhưng Chúa lại muốn gần gũi anh.

Cả loài người muốn từ khước anh, nhưng Chúa lại đón nhận anh .

Cả loài ngươi tưởng rằng anh sẽ bơ vơ lạc lõng khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường thì giờ đây anh lại được bước vào một xã hội mới không phải là của loài người nhưng là của Thiên Chúa trong đó mọi người được liên kết với nhau trong một niềm tin và được sống với nhau bằng chính Tình yêu Thiên Chúa đã yêu thương con người.

Trong Cuốn “Lẽ Sống" có một câu chuyện rất hay. Câu chuyện thế này: Có hai người lái buôn rất giầu có. Hai người lại là bạn thân với nhau. Một hôm hai người nảy ra một ý định là phải đi tìm cho bằng được điều quí giá nhất trên đời. Sau đó thì mỗi người đi một ngả và thề sẽ gặp lại nhau sau khi đã đạt được mục đích.

Người thứ nhất lặn lội khắp mọi nơi để đi tìm một viên ngọc mà người ta gọi là quí nhất trên đời. Ông không ngần ngại lội suối băng rừng, bất chấp mọi hiểm nguy trên con đường để đi tìm và cuối cùng thì ông đã tìm thấy. Ông vui mừng trở về và chờ đợi người bạn của ông.

Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn vô âm biệt tín. Nhưng sau thì ông khám phá ra rằng sở dĩ người bạn của mình chưa về là vì ông ta không đi tìm vàng bạc mà là đi tìm Thiên Chúa. Sau bao nhiêu năm trời tìm thầy thọ giáo, nghiên cứu thánh hiền, cặm cụi với sách vở vậy mà ông vẫn chưa tìm thấy Thiên Chúa.

Thế rồi một hôm kia ông đến ngồi thẫn thờ ở bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con. Tội nghiệp cho con vị mẹ. Nó cứ phải lận đận vất vả với những con vịt con. Mấy con vịt con cứ thích tách rời khỏi mẹ để đi tìm thức ăn riêng.

Vịt mẹ sợ vịt con lạc đàn nguy nhiễm cho nên cứ phải đi thu con trở về đàn. Nhưng thu được con này thì lại mất con khác. Dầu vậy vịt mẹ vẫn kiên tâm, không hề tỏ ra một dấu gì là mệt mỏi, gắt gỏng hay giận dữ. Nhìn cái cảnh vịt mẹ cứ mải mê đi tìm vịt con như thế, người đó như tìm ra được câu trả lời cho cuộc tìm kiếm của mình. Ông vội vàng đứng dậy và lên đường trở về nhà.

Vừa giáp mặt là người bạn về trước đã hỏi ngay: “Cho tôi xem thử điều quí giá nhất mà anh đã tìm thấy coi. Tôi nghĩ nó phải là một điều tuyệt diệu lắm bởi chưa bao giờ tôi thấy anh có nét mặt mãn nguyện, vui tươi rạng rỡ như hôm nay”.

Con người trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn lại ngập tràn niềm vui rả lời:

“Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng thì tôi lại khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”

Vâng Chúa vẫn đi tìm. Ngài mải mê tìm kiếm chúng ta. Ngài đã đến tìm người phụ nữ ở giếng Gia-cóp và đưa bà trở về. Ngài đã đích thân tìm đến người mù trong bài Tin mừng hôm nay để đưa anh về với cội nguồn ánh áng. Ngài vẫn tiếp tục đi tìm. Chúng ta hãy để cho Ngài dìu dắt hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Hãy can đảm đi theo sự chỉ dẫn của Ngài chúng ta sẽ tìm thấy ánh sáng. Amen.

Top